Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp nâng cao chất lượng môn Chính tả cho học sinh Lớp 4 - Trần Thị Xuân

Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp nâng cao chất lượng môn Chính tả cho học sinh Lớp 4 - Trần Thị Xuân

 Cũng như tất cả các nước dùng hệ thống chữ cái Latin khác trên thế giới, “ghi giọng nói” là thao tác hiển thị cơ bản của ngôn ngữ viết. Trong khi trong thực tế ở nước ta, hiện tượng không đồng nhất trong phát âm là khá phổ biến. Do tình hình kinh tế xã hội chung, hầu như bất kỳ địa phương nào trong cả nước cũng có sự pha trộn, giao thoa của nhiều vùng miền. Từ giáo viên đến học sinh, “Cô Bắc - trò Nam; Cô Trung - trò Bắc.”. “Nghe và hiểu” được tiếng nói của nhau quả là không đơn giản. Trong khi “chuẩn chính tả” của Ngữ pháp Việt Nam căn cứ vào phát âm của khu vực Hà Nội thì với các vùng miền khác việc “nhại giọng nói” theo phát âm tiêu chuẩn không hề đơn giản. Một số ví dụ tiêu biểu như: Phát âm của một số vùng Bắc Bộ (Hải Dương) thì “nói và làm” thành ra “lói và nàm”, khu vực Trung Bộ (khu vực Bình Trị Thiên, Nghệ Tĩnh) hầu như không phân biệt nỗi các dấu thanh “sắc - nặng - hỏi - ngã” như “nói” lại thành “nọi”; phát âm khu vực các Tỉnh “xứ Quảng” thì càng gay gắt hơn với những nguyên âm chính như “ ăn” thành “eng”, “nói” thì nghe thành “núa”, các tỉnh Miền Nam thì “về” thành ra “dề” hay “lan” và “lang” nghe.như nhau, đặc biệt vùng Đồng bằng Nam bộ còn có phát âm như ngọng “Con cá rô bỏ vô rổ giãy rột rột” thành “ Con cá gô bỏ vô gổ dảy gột gột”, “bên ngoài” thành “bên quài”, “đàng hoàng” thành “đàng quàng”. Nhưng “vùng nào hiểu theo vùng nấy” nên thật ra trong từng địa phương có kiểu phát âm như vậy đã thành “quen tai” nên không có gì đáng nói. Có điều là hiện nay, sự sống chung pha trộn trong các vùng cả nước hiện nay là phổ biến nên khó khăn trong việc “nghe và viết” sao cho đúng là một vấn đề lớn đối với Chính tả Việt Nam là rất rõ nét.

doc 9 trang Người đăng lilyphan99 Ngày đăng 18/01/2022 Lượt xem 367Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp nâng cao chất lượng môn Chính tả cho học sinh Lớp 4 - Trần Thị Xuân", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑEÀ TAØI :
BIEÄN PHAÙP NAÂNG CAO CHAÁT LÖÔÏNG MOÂN CHÍNH TAÛ
CHO HOÏC SINH LỚP 4
 Sơ yếu lý lịch
Họ và tên : Trần Thị Xuân
Năm sinh: 1969 
Quê quán: Kim Sơn, Ninh Bình
Chức vụ: Giáo viên
Trình độ văn hóa: 12/12
Trình độ chuyên môn: Trung Học Sư Phạm 12+2
Đơn vị công tác: Trường TH Gành Hào B
I. LỜI NÓI ĐẦU:
	 Cũng như tất cả các nước dùng hệ thống chữ cái Latin khác trên thế giới, “ghi giọng nói” là thao tác hiển thị cơ bản của ngôn ngữ viết. Trong khi trong thực tế ở nước ta, hiện tượng không đồng nhất trong phát âm là khá phổ biến. Do tình hình kinh tế xã hội chung, hầu như bất kỳ địa phương nào trong cả nước cũng có sự pha trộn, giao thoa của nhiều vùng miền. Từ giáo viên đến học sinh, “Cô Bắc - trò Nam; Cô Trung - trò Bắc...”. “Nghe và hiểu” được tiếng nói của nhau quả là không đơn giản. Trong khi “chuẩn chính tả” của Ngữ pháp Việt Nam căn cứ vào phát âm của khu vực Hà Nội thì với các vùng miền khác việc “nhại giọng nói” theo phát âm tiêu chuẩn không hề đơn giản. Một số ví dụ tiêu biểu như: Phát âm của một số vùng Bắc Bộ (Hải Dương) thì “nói và làm” thành ra “lói và nàm”, khu vực Trung Bộ (khu vực Bình Trị Thiên, Nghệ Tĩnh) hầu như không phân biệt nỗi các dấu thanh “sắc - nặng - hỏi - ngã” như “nói” lại thành “nọi”; phát âm khu vực các Tỉnh “xứ Quảng” thì càng gay gắt hơn với những nguyên âm chính như “ ăn” thành “eng”, “nói” thì nghe thành “núa”, các tỉnh Miền Nam thì “về” thành ra “dề” hay “lan” và “lang” nghe...như nhau, đặc biệt vùng Đồng bằng Nam bộ còn có phát âm như ngọng “Con cá rô bỏ vô rổ giãy rột rột” thành “ Con cá gô bỏ vô gổ dảy gột gột”, “bên ngoài” thành “bên quài”, “đàng hoàng” thành “đàng quàng”... Nhưng “vùng nào hiểu theo vùng nấy” nên thật ra trong từng địa phương có kiểu phát âm như vậy đã thành “quen tai” nên không có gì đáng nói. Có điều là hiện nay, sự sống chung pha trộn trong các vùng cả nước hiện nay là phổ biến nên khó khăn trong việc “nghe và viết” sao cho đúng là một vấn đề lớn đối với Chính tả Việt Nam là rất rõ nét.
Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con người, giáo dục là một yếu tố vô cùng quan trọng và cần thiết, giúp con người phát triển một cách toàn diện. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục Tiểu học là bậc học nền tảng, có nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và thể chất của trẻ em. Nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Có thể nói giáo dục là một quá trình hoạt động dạy và học phong phú và sôi nổi giữa thầy và trò; làm cho các em gắn bó chặt chẽ với hoạt động học tập, lao động và đời sống xã hội. Trong Tiếng Việt “ nói sao ghi âm vậy”. Bởi thế việc rèn luyện cho các em viết đúng chính tả là một việc làm lâu dài và bền bỉ, là một yếu tố vô cùng quan trọng để góp phần giáo dục các em phát triển toàn diện.
1. Lý do chọn đề tài:
a) Cơ sở lý luận:
Công tác bồi dưỡng, rèn luyện cho học sinh viết đúng chính tả có tầm quan trọng chiến lược, nó góp phần quyết định chất lượng giáo dục và dạy học trong nhà trường, đòi hỏi người giáo viên phải có lòng kiên trì, tấm lòng bền bỉ.
Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con người, giáo dục là một yếu tố vô cùng quan trọng và cần thiết, giúp con người phát triển một cách toàn diện. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục Tiểu học là bậc học nền tảng, có nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và thể chất của trẻ em. Nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Có thể nói giáo dục là một quá trình hoạt động dạy và học phong phú và sôi nổi giữa thầy và trò; làm cho các em gắn bó chặt chẽ với hoạt động học tập, lao động và đời sống xã hội. Trong Tiếng Việt “ nói sao ghi âm vậy”. Bởi thế việc rèn luyện cho các em viết đúng chính tả là một việc làm lâu dài và bền bỉ, là một yếu tố vô cùng quan trọng để góp phần giáo dục các em phát triển toàn diện.
b) Cơ sở thực tiễn:
Trong thực tế, nhận thức của một số giáo viên tiểu học về công tác bồi dưỡng, rèn luyện cho học sinh viết đúng chính tả còn hạn chế, chưa đúng, chưa đủ , chưa thường xuyên về vị trí, vai trò của công tác này trong nhà trường. Đó là nguyên nhân thực tiễn dẫn đến kết quả công tác rèn luyện chữ viết cho học sinh chưa được quan tâm đúng mức. chính vì vậy số học sinh viết mắc lỗi chính tả còn quá nhiều.
Thực tiễn trong thời gian qua, các trường tiểu học ở địa bàn huyện Đông Hải nói chung và trường trường Tiểu học Gành Hào B nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực trong việc rèn luyện cho học sinh viết đúng chính tả, tiến tới viết đẹp, viết nhanh, qua các phong trào rèn luyện chữ viết cho học sinh, phong trào thi vở sạch chữ đẹp do Phòng GD&ĐT tổ chức, các trường hưởng ứng, đã thúc đẩy cho học sinh thi đua rèn luyện viết đẹp, viết đúng.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để trường Tiểu học Gành Hào B giữ vững và phát huy những thành tích dạy học đã đạt được trong thời gian qua, các danh hiệu trong các phong trào thi giáo viên giỏi, thi học sinh giỏi, thi giáo viên và học sinh có chữ viết đẹp. Với suy nghĩ đó, tôi chọn đề tài “ Biện pháp nâng cao chất lượng môn chính tả cho học sinh lớp 4” ở trường Tiểu học Gành Hào B - Huyện Đông Hải, để mong góp một phần nhỏ bé của mình vào thành tích chung của toàn trường. Để trường Tiểu học Gành Hào B luôn là lá cờ đầu trong các phong trào của toàn huyện.
2/ Phạm vi đề tài:
Trong đề tài này, tôi xin được giới hạn phạm vi nghiên cứu trong khuôn khổ việc rèn luyện viết đúng chính tả cho học sinh Tiểu học ở trường Tiểu học Gành Hào B nhằm góp một phần nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học và giáo dục.	
 II/ THỰC TRẠNG:
	Chữ viết hiện nay của người Việt là chữ viết ghi lại theo phát âm. Do đó việc viết đúng phải dựa trên đọc đúng, đọc đúng là cơ sử viết đúng. Tuy nhiên do yếu tố vùng miền, cách phát âm mỗi nơi có khác nhau. Mặc dù những qui tắc, qui ước về Chính tả đã được thống nhất theo ngữ pháp chung. Nhưng việc “viết đúng Chính tả” trong học sinh hiện nay nói chung vẫn còn nhiều khó khăn, tồn tại. 
	Chính vì vậy, học sinh hiện nay mắc lỗi chính tả rất nhiều. Điều này ảnh hưởng tới kết quả học tập của các em ở môn Tiếng Việt nói chung cũng như các môn học khác. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy thực tế tôi đã tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra một số biện pháp khắc phục để giúp học sinh học tốt môn chính tả, một trong những biện pháp tích cực giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt và các môn học khác trong chương trình. Bởi trên thực tế, nếu người nói “không chuẩn phát âm” không thể làm người nghe hiểu mình muốn gì thì “ viết không đúng” cũng không thể diễn đạt được ý tưởng của mình cho người khác hiểu. Đặc biệt là trong chương trình phổ thông, môn Tiếng Việt lại là môn “chủ lực và trung tâm” để có thể khai thác các môn học khác một cách tốt nhất.
1. Quan sát thực tế:
Qua nhiều năm giảng dạy lớp 4 cũng như quan sát thực tế các lớp khác trong trường Tiểu học Gành Hào B, tôi thấy tình trạng các em viết sai chính tả quá nhiều. Có nhiêu em đầu năm sai đến 15 đến 20 lỗi chính tả trong một bài viết. Điều này làm cho giáo viên rất vất vả trong công tác chấm bài và sửa lỗi cho các em, vì thời gian một tiết học chính tả là có hạn.
2. Nghiên cứu tài liệu:
Từ những quan sát thực tế trong nhiều năm tôi trăn trở và quyết tâm nghiên cứu để làm sao rèn cho các em có thể viết đúng chính tả sau đó là tiến tới viết đẹp, viết nhanh. Tôi nghiên cứu tìm tòi đọc sách báo và áp dụng với kinh nghiệm bản thân để rèn cho các em viết đúng chính tả.
3. Thực trạng viết chính tả của học sinh Tiểu học tại trường:
	Qua quá trình giảng dạy và theo dõi chất lượng bộ môn Tiếng Việt trong các năm qua, tôi thấy học sinh thường mắc phải các loại lỗi sau:
	a. Lỗi về dấu thanh:
	Tiếng Việt có 6 thanh (ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng) thì nhiều học sinh không phân biệt được 2 thanh hỏi, ngã. Số lượng tiếng mang 2 thanh này không ít và rất phổ biến - kể cả những người có trình độ văn hoá cao.
	Ví dụ: 	Sữa xe đạp, hướng dẩn, giử gìn, dổ dành, lẩn lộn,
	b. Lỗi phụ âm đầu: 
	- Học sinh viết lẫn lộn một số chữ cái ghi các âm đầu sau đây:
+ c/k: Céo co	
+ ng/qu: ông quại (ngoại), bên quài (ngoài)
+ g/gh: Con ghà , gê gớm	
+ h/qu: quảng hốt (hoảng hốt), phá quại (phá hoại)
+ ng/ngh: Ngỉ ngơi, nge nhạc, nghành nghề
+ ch/tr: Cây che, chiến chanh
+ s/x: Cây xả , xa mạc
	c.Lỗi âm cuối, vần: 
	- Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau đây:
+ at/ac- ăt/ăc - ât/âc: mác mẻ, lường gạc, gặc lúa, nổi bậc, lấc phấc
+ an/ang- ân/âng: cây bàn, bàng bạc, khoai lan, hụt hẫn, tần lầu...
+âu/ôi : ông Nậu (nội), cái gấu (gối)...
+ ên/ênh: bấp bên, nhẹ tên, ghập ghền, khấp khển
+ư/ươi: con ngừ , hai mư...
2. Nguyên nhân chủ yếu:
	a/ Lỗi về dấu thanh: 
	Thực tế qua ngôn ngữ nói, các em nghe đúng nhưng khi viết lại đặt thanh ngã, thanh hỏi không đúng. Trong khi số lượng từ mang 2 thanh này khá lớn. Do đó đây là lỗi rất phổ biến trong học sinh. 
	b/ Lỗi khi viết âm đầu:
	Trong phương ngữ Bắc và Nam có sự lẫn lộn giữa các chữ ghi âm đầu ch/tr, d/gi, s/x . Mặt khác, trong khi một số vùng miền Bắc thường lẫn lộn các âm đầu l/n thì người Miền Nam thường lẫn lộn v/d, r/g. Ngoài ra, trong quy ước về chữ quốc ngữ, một âm ghi bằng 2 hoặc 3 dạng (ví dụ: âm “cờ” ghi bằng 3 chữ cái c / k /qu , âm “ngờ” ghi bằng ng/ngh, âm “gờ” ghi bằng g/gh) dù có những quy định riêng cho mỗi dạng khi ghép chữ, nhưng đối với học sinh tiểu học thì rất dễ lẫn lộn.
	c/. Lỗi khi viết âm cuối:
	Đối với người Miền Nam, có thể nói việc phát âm hoàn toàn không phân biệt các vần có âm cuối n/ng và t/c. Mà số từ mang các vần này không nhỏ. Chính vì vậy các em thường viết thiếu hoặc thừ âm cuối.
Ví dụ: 
	+ Cái bàn viết ra cái bàng hoặc ngược lại.
	+ Xóm làng viết ra xóm làn.
	Mặt khác hai bán âm cuối i,u/ lại được ghi bằng 4 con chữ i/y (trong: lai/lây), u/o (trong: sau/sao), ư/ươi (trong : tư/tươi) do đó lỗi về âm cuối là lỗi khó khắc phục đối với học sinh các tỉnh phía Nam nói chung và tại địa phương nói riêng
III. CÁC GIẢI PHÁP
1. Tích cực luyện phát âm đúng:
	Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải là người phát âm rõ tiếng, đúng chuẩn, đồng thời chú ý luyện phát âm cho học sinh để phân biệt các thanh, các âm đầu, âm cuối. Việc rèn phát âm bắt đầu phải được thực hiện trong tiết Tập đọc và được thực hiện thường xuyên, liên tục, lâu dài trong tất cả các tiết học như Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn
2. Phân biệt chính tả bằng phân tích, so sánh:
	Song song với việc phát âm, giáo viên có thể áp dụng biện pháp phân tích cấu tạo tiếng, so sánh với những tiếng dễ lẫn lộn, phát hiện những điểm khác nhau để học sinh lưu ý và ghi nhớ.
	Ví dụ: Khi viết tiếng “làng” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “làn”, giáo viên yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này:
	- làng = l + ang + thanh huyền
	- làn = l + an + thanh huyền.
	So sánh để thấy sự khác nhau: Tiếng “làng” có âm cuối là “ng”, tiếng “làn” có âm cuối là “n”. Học sinh ghi nhớ điều này, khi viết, các em sẽ không viết sai.
3. Phân biệt bằng nghĩa từ:
	Một biện pháp khác để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh là giúp học sinh hiểu nghĩa chính xác của từ. Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết Tập đọc, Luyện từ và câunhưng trong tiết Chính tả cũng là một biện pháp tích cực, khi học sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hoặc phân tích cấu tạo tiếng.
	Ví dụ: Phân biệt bàn và bàng (trong từ đơn): Bàn = cái bàn – bàng = cây bàng hoặc phân biệt Bác và bát : bác = anh của ba, Bác Hồ - bát = đồ dùng ăn cơm (bát đũa)
	Với những từ nhiều tiếng, từ nhiều nghĩa giáo viên phải đặt từ đó trong văn cảnh cụ thể để gợi lại nghĩa từ hoặc giúp học sinh giải nghĩa từ.
4. Ghi nhớ một số mẹo luật chính tả:
	Một số hiện tượng chính tả mang tính quy luật đối với hàng loạt từ có thể giúp cho học sinh khắc phục lỗi chính tả một cách rất hữu hiệu. Ngay từ lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như: các âm đầu k, gh, ngh chỉ kết hợp với các nguyên âm i, e, ê, iê, ie. 
	Luật bổng - trầm: Qui luật về dấu hỏi, ngã trong các từ láy (mát mẻ, vui vẻ, sạch sẽ...) Trong các từ láy điệp âm đầu, thanh (hay dấu) của 2 yếu tố ở cùng một hệ bổng (ngang/sắc/hỏi) hoặc trầm (huyền/ngã/nặng). Để nhớ được 2 nhóm này, giáo viên chỉ cần dạy cho học sinh thuộc nguyên tắc : Ngang - sắc = hỏi/ Huyền - nặng = ngã
	Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh huyền, nặng, ngã thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã, nếu yếu tố đứng trước mang thanh ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (hoặc ngược lại).
	Ví dụ:	
	- Ngang + hỏi: Nhỏ nhoi, trẻ trung, vui vẻ
	- Sắc + hỏi: Mát mẻ, sắc sảo, vắng vẻ
	- Hỏi + hỏi: Thỏ thẻ, hổn hển, rủ rỉ
	- Huyền + ngã: Mỡ màng, lững lờ, vồn vã
	- Nặng + ngã: Đẹp đẽ, mạnh mẽ, vật vã
	- Ngã + ngã: Dễ dãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo
	Ngoài ra, giáo viên có thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật khác như:
	+ Để phân biệt âm đầu tr/ch: Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con vật đều bắt đầu bằng ch, ví dụ: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén, chum, chạn, chõ, chĩnh, chuông, chiêng, choé, chồn, chí, chuột, chó, chuồn chuồn, châu chấu, chào mào, chiền chiện, chẫu chàng, chèo bẻo, chìa vôi
	+ Để phân biệt âm đầu s/x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu bằng s: Sả, si, sồi, sứ, sung, sắn, sim, sao, su su, sầu đâu, sa nhân, sơn trà, sặt, sậy, sấu, sến, săng lẻ, sầu riêng, so đũa sam, sán, sáo, sâu, sên, sếu, sò, sóc, sói, sứa, sáo sậu, săn sắt, sư tử, sơn dương, san hô
	+ Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn: 
	Đa số từ chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc có vần ênh: Gập ghềnh, khấp khểnh, chông chênh, lênh đênh, bập bềnh, chếnh choáng, chệnh choạng, lênh khênh, bấp bênh, công kênh
	Hầu hết các từ tận cùng là ng hoặc nh là từ tượng thanh: oang oang, đùng đoàng, loảng xoảng, đoàng đoàng, sang sảng, rổn rảng, ùng oàng, quang quác, pằng pằng, eng éc, beng beng, chập cheng, leng keng, lẻng kẻng, đùng đùng, thùng thùng, bình bịch, thình thịch, rập rình, xập xình, huỳnh huỵch
	Vần uyu chỉ xuất hiện trong các từ tượng hình: khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu, khuỵu chân; vần oeo chỉ xuất hiện trong các từ ngoằn ngoèo, khoèo chân
5. Vận dụng củng cố bằng các bài tập chính tả:
	Giáo viên nên cho học sinh thực hiện các dạng bài tập chính tả khác nhau để giúp học sinh tập vận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng từ trong văn cảnh cụ thể. Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp học sinh rút ra các quy tắc chính tả để các em ghi nhớ.
	Ngoài ra, việc kiểm tra “viết đúng chính tả” của giáo viên đối với học sinh không chỉ ở môn Chính tả mà cũng cần lưu ý nhắc nhở học sinh trong tất cả các môn học khác trong chương trình, đặc biệt là môn Tập làm văn. Việc này phải được tiến hành kiên trì và liên tục để giúp học sinh dần có ý thức rèn kỹ năng “viết đúng” trong mọi tình huống.
IV. KẾT QUẢ:
	Trong quá trình giảng dạy, với việc áp dụng các biện pháp trên tôi nhận thấy học sinh đã có tiến bộ khá rõ rệt. Tuy rằng đây mới chỉ là kết quả hết sức khiêm tốn và việc “ giúp học sinh học tốt môn chính tả” là một quá trình lâu dài song với những kết quả bước đầu như trên, nếu tiếp tục rèn luyện sang lớp trên các em sẽ có kỹ năng viết đúng đạt yêu cầu. Cụ thể qua bảng so sánh chất lượng sau của lớp:
Đầu năm
Giữa HK1
Cuối HK1
Số học sinh trung bình trở lên:
 23/44
 28/44
 32/44
Số học sinh yếu:
 21/44
 16/44
 12/44
	Một số học sinh yếu kém vào đầu năm học như: Laâm Troïng Phuùc, Nguyeãn Trí Ñaït, Leâ Haûi Ñaêng, Cao Chí Nguyeän, Ñoã Chí Nhaân, Leâ Höõu Thöùc, Phaïm Toá Duy, Buøi Thaønh Tyû, Phaïm Nhö YÙ, Traàn Haûi Ñaêng  Ñaây laø moät soá hoïc sinh trong lôùp thường sai từ 10 lỗi trở lên trong 1 bài đến cuối HK1 số lỗi đã giảm xuống còn 2-5 lỗi/mỗi bài.
V. KẾT LUẬN:
1. Tóm lược giải pháp:
	Phát hiện lỗi chính tả, đưa ra các biện pháp khắc phục kịp thời là rất cần thiết, không thể thiếu trong quá trình dạy - học. Nhưng không phải chỉ đưa ra các biện pháp khắc phục là có thể thực hiện một cách có hiệu quả. Sửa chữa, khắc phục lỗi chính tả là cả một quá trình lâu dài, đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, bền bỉ.	Giáo viên nên hướng dẫn các em thật tỉ mỉ về các quy tắc chính tả, quy tắc kết hợp từ, quy tắc ghi âm chữ quốc ngữTrong quá trình giảng dạy, giáo viên luôn quan sát, kiểm tra,  từ đó phát hiện ra những khó khăn, vướng mắc, hoặc những lỗi mà học sinh hay mắc phải để kịp thời sửa chữa, uốn nắn.
	Giáo viên cần phải không ngừng học hỏi, tự tìm hiểu, nghiên cứu để nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ. Có nắm chắc kiến thức, giáo viên mới có thể giúp học sinh học tập một cách có hiệu quả.
	Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm, bản thân tôi nhận thấy người giáo viên có vai trò to lớn trong việc tổ chức mọi hoạt động nhằm giáo dục học sinh. Muốn cho học sinh viết đúng, viết tốt chính tả, người giáo viên phải thường xuyên quan tâm đến các em trong quá trình viết bài của tất cả các môn học nói chung và phân môn chính tả nói riêng. Quan tâm đến tất cả các em viết sai ít cũng như cần đặc biệt quan tâm nhiều hơn đến các em viết sai quá nhiều lỗi chính tả. Thường xuyên nhắc nhở các em luyện viết. Giáo viên nên thường xuyên hướng dẫn các em thật tỉ mỉ về các quy tắc chính tả, quy tắc kết hợp từ, quy tắc ghi âm chữ quốc ngữ, áp dụng phân biệt chính tả bằng phân tích, so sánh phân biệt bằng nghĩa từ, ghi nhớ một số mẹo luật chính tả và vận dụng củng cố bằng các bài tập chính tả Trong quá trình giảng dạy, giáo viên luôn quan sát, kiểm tra,  từ đó phát hiện ra những khó khăn, vướng mắc, hoặc những lỗi mà học sinh hay mắc phải để kịp thời sửa chữa, uốn nắn.
2. Phạm vi áp dụng: 
Trong đề tài này, tôi chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu trong khuôn khổ việc rèn luyện viết đúng chính tả cho học sinh Tiểu học ở trường Tiểu học Gành Hào B nhằm góp một phần nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học và giáo dục. Vì vậy có thể áp dụng trước hết trong toàn khối 4 và phạm vi trong trường để giúp các em viết đúng trong phân môn chính tả.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã nghiên cứu và vận dụng trong quá trình giảng dạy thực tế của lớp mình. Tuy kết quả bước đầu chưa cao lắm, nhưng với nhiệt tình và nỗ lực theo khả năng, tôi cũng đã tích lũy được một số bài học thực tiễn. Rất mong được nhận ý kiến đóng góp của Ban giám hiệu cùng các bạn đồng nghiệp, để việc giảng dạy bộ môn Chính tả trong nhà trường ngày càng nâng cao chất lượng, giúp học sinh học tốt hơn.
 Tôi xin chân thành cảm ơn! 
Gành Hào, ngày 12 tháng 03 năm 2012.
 Người viết sáng kiến kinh nghiệm
 Trần Thị Xuân

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_nang_cao_chat_luong_mon_chin.doc