Cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục nhà trường xuất hiện như một điều tất yếu, đón bước thiếu nhi cắp sách tới trường. Cả thế giới đang mở trước mắt các em. Kho tàng văn minh nhân loại được chuyển giao từ những điều sơ đẳng nhất. Quá trình giáo dục được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, tất cả các môn học.
Những điều sơ đẳng nhất đã góp phần rất quan trọng trong việc sử dụng ngôn ngữ vào hoạt động giao tiếp của học sinh. Ngôn ngữ là thứ công cụ có tác dụng vô cùng to lớn. Nó có thể diễn tả tất cả những gì con người nghĩ ra, nhìn thấy biết được những giá trị trừu tượng mà các giác quan không thể vươn tới được. Các môn học ở Tiểu học có tác dụng hỗ trợ cho nhau nhằm giáo dục toàn diện học sinh phải kể đến Luyện từ và câu, một phân môn chiếm thời lượng khá lớn trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Nó tách thành một phân môn độc lập, có vị trí ngang bằng với phân môn Tập đọc, Tập làm văn.song song tồn tại với các môn học khác. Điều đó thể hiện việc cung cấp vốn từ cho học sinh là rất cần thiết và nó có thể mang tính chất cấp bách nhằm “đầu tư” cho học sinh có cơ sở hình thành ngôn ngữ cho hoạt động giao tiếp cũng như chiếm lĩnh nguồn tri thức mới trong các môn học khác.Tầm quan trọng đó đã được rèn giũa luyện tập nhuần nhuyễn trong quá trình giải quyết các dạng bài tập trong môn Luyện từ và câu
lớp 4 .
Phần I : đặt vấn đề . Cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục nhà trường xuất hiện như một điều tất yếu, đón bước thiếu nhi cắp sách tới trường. Cả thế giới đang mở trước mắt các em. Kho tàng văn minh nhân loại được chuyển giao từ những điều sơ đẳng nhất. Quá trình giáo dục được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, tất cả các môn học. Những điều sơ đẳng nhất đã góp phần rất quan trọng trong việc sử dụng ngôn ngữ vào hoạt động giao tiếp của học sinh. Ngôn ngữ là thứ công cụ có tác dụng vô cùng to lớn. Nó có thể diễn tả tất cả những gì con người nghĩ ra, nhìn thấy biết được những giá trị trừu tượng mà các giác quan không thể vươn tới được. Các môn học ở Tiểu học có tác dụng hỗ trợ cho nhau nhằm giáo dục toàn diện học sinh phải kể đến Luyện từ và câu, một phân môn chiếm thời lượng khá lớn trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Nó tách thành một phân môn độc lập, có vị trí ngang bằng với phân môn Tập đọc, Tập làm văn...song song tồn tại với các môn học khác. Điều đó thể hiện việc cung cấp vốn từ cho học sinh là rất cần thiết và nó có thể mang tính chất cấp bách nhằm “đầu tư” cho học sinh có cơ sở hình thành ngôn ngữ cho hoạt động giao tiếp cũng như chiếm lĩnh nguồn tri thức mới trong các môn học khác.Tầm quan trọng đó đã được rèn giũa luyện tập nhuần nhuyễn trong quá trình giải quyết các dạng bài tập trong môn Luyện từ và câu lớp 4 . Việc giải quyết các dạng bài tập Luyện từ và câu lớp 4 có hiệu quả đặt ra cho các Giáo viên Tiểu học là một vấn đề không phải đơn giản. Qua thực tế dạy đã gặp phải không ít những khó khăn. Bởi đây là chương trình thay sách lớp 4 mới. Cùng tồn tại với nó là từ ngữ và ngữ pháp của chương trình cải cách đều đảm nhiệm cung cấp vốn từ cho học sinh, việc hướng dẫn làm các bài tập Luyện từ và câu mang tính chất máy móc, không mở rộng cho học sinh nắm sâu kiến thức của bài. Về phía học sinh, làm các bài tập chỉ biết làm mà không hiểu tại sao làm như vậy, học sinh không có hứng thú trong việc giải quyết kiến thức. Do vậy việc tổchức cho học sinh trong các giờ giải quyết các bài tập Luyện từ và câu là vấn đề trăn trở cho các giáo viên và ngay bản thân tôi. Trong quá trình dạy học cũng như việc phát hiện học sinh năng khiếu, tôi cũng như một số giáo viên khác khi dạy đến tiết Luyện từ và câu, đặc biệt các khái niệm về từ đơn, từ ghép, các kiểu từ ghép...bộc lộ không ít hạn chế. Về nội dung chương trình dạy phần đó trong sách giáo khoa rất ít. Chính vì vậy học sinh rất khó xác định, dẫn đến tiết học trở nên nhàm chán không thu hút học sinh vào hoạt động này. Để tháo gỡ khó khăn đó rất cần có một phương pháp tổ chức tốt nhất, có hiệu quả nhất cho tiết dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4. Chính vì lí do trên nên tôi muốn đi sâu tìm hiểu một khía cạnh nhỏ của phân môn Luyện từ và câu đó là “Một số biện pháp dạy các dạng bài tập luyện từ và câu cho học sinh lớp 4”.Giúp giáo viên có thêm ý tưởng hướng dẫn học sinh làm bài tập luyện từ và câu đạt hiệu quả . Phần II : Nội dung A . Thực trạng dạy – học các dạng bài tập “Luyện từ và câu”. 1 . Đối với học sinh : Hầu hết học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân môn “Luyện từ và câu” nên chưa dành thời gian thích đáng để học môn này. Học sinh không có hứng thú học phân môn này. Các em đều cho đây là phân môn vừa “khô” vừa “khó”. Thực tế cho thấy nhiều học sinh khi hỏi đến lý thuyết thì trả lời rất trôi chảy, chính xác, nhưng khi làm bài tập thực hành thì lúng túng và làm bài không đạt yêu cầu. Điều đó thể hiện học sinh nắm kiến thức một cách máy móc, thụ động và tỏ ra yếu kém, thiếu chắc chắn. Do vậy ngay khi dạy tới phần từ ghép, từ láy...Tôi đã tiến hành khảo sát học sinh lớp 4A bằng bài tập sau. Đề bài: Xác định từ ghép và từ láy trong đoạn văn sau. “Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn. Rồi tre lớn lên cứng cáp, dẻo dai, vững chắc. Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người”. Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm của 27 học sinh lớp 4A trường Tiểu học đồng Thành như sau : Giỏi Khá Trung bình Yếu SL % SL % SL % SL % 2 7,4 % 4 14,8 % 17 63 % 4 14,8 % Điều đáng nói ở đây là có tới 17 em chưa biết xác định từ ghép, từ láy, trong quá trình làm học sinh chưa biết trình bày khoa học rõ ràng, câu trả lời chưa đầy đủ. * Nguyên nhân dẫn đến chất lượng trên thể hiện tập trung ở các khía cạnh sau : + Nhiều học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ, câu...Từ đó dẫn đến việc nhận diện phân loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm lẫn nhiều . + Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ sót, làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài . + Các em thiếu vốn sống, thiếu hiểu biết những gì có liên quan đến bài làm . 2. Đối với giáo viên : - Phân môn “Luyện từ và câu” là phần kiến thức khó, trong khi hướng dẫn học sinh nắm được yêu cầu và vận dụng vào việc làm các bài tập nên dẫn đến việc vận dụng của giáo viên còn lúng túng, gặp khó khăn . -Một số ít giáo viên chưa chịu đầu tư thời gian vào việc nghiên cứu để khai thác kiến thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh, lệ thuộc vào đáp án, gợi ý, dẫn đến học sinh ngại học phân môn này. - Cách dạy của một số ít giáo viên còn đơn điệu, lệ thuộc máy móc vào sách giáo khoa, hầu như ít sáng tạo, chưa thu hút, lôi cuốn học sinh . - Nhiều giáo viên chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ cho học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về Tiếng Việt . Qua giảng dạy tôi nhận thấy kết quả chưa cao là do nguyên nhân cả hai phía; Người dạy và người học. Do vậy tôi rất cần phải trau dồi kiến thức tìm ra một số biện pháp trong hướng dẫn giảng dạy để khắc phục thực trạng trên, để kết quả dạy học được nâng lên, thu hút sự chú ý của học sinh vào hoạt động học . B .Giải quyết vấn đề : I .Các giải pháp chính . 1. Yêu cầu học sinh đọc thật kỹ đề bài. 2. Hướng dẫn nắm chắc yêu cầu của đề bài. Phân tích mối quan hệ giữa yếu tố đã cho và yếu tố phải tìm. 3. Vận dụng kiến thức đã học để thực hiện lần lượt từng yêu cầu của đề bài. 4. Kiểm tra đánh giá. II . Các biện pháp để tổ chức thực hiện . Các kiểu hình thức và kĩ năng cần học trong phân môn “Luyện từ và câu” được rèn luyện thông qua nhiều bài tập với các tình huống giao tiếp tự nhiên. a. Đối với các dạng bài tập mở rộng vốn từ. Ví dụ: Tìm các từ ngữ: - Thể hiện lòng nhân hậu, tình cảm yêu thương đồng loại. - Trái nghĩa với nhân hậu hoặc yêu thương. - Thể hiện tinh thần đùm bọc, giúp đỡ đồng loại. - Trái nghĩa với với đùm bọc hoặc giúp đỡ. Ngoài việc sử dụng mẫu trong sách giáo khoa cần yêu cầu học sinh làm việc theo nhóm . Mỗi nhóm một yêu cầu, sau khi đại diện từng nhóm trình bày từ và nêu ý nghĩa của các từ vừa tìm được. Các nhóm cùng bổ sung, giáo viên chốt lại ý kiến đúng và bổ sung thêm . Liên hệ giữa tình huống học sinh đã làm được trong cuộc sống, quá trình học tập. b. Rèn luyện kĩ năng cấu tạo từ – dạng bài tập tìm từ ghép, từ láy. Ví dụ: Tìm từ láy, từ ghép chứa các tiếng sau đây. - Ngay - Thẳng - Thật Đối với các dạng bài tập này tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm trong phiếu, mỗi nhóm hoạt động một nhiệm vụ . Từ Từ láy Từ ghép Ngay Ngay ngáy Ngay thẳng, ngay ngắn... Thẳng Thẳng thắn Ngay thẳng, thẳng tắp... Thật Thật thà Sự thật, thẳng thật... Cùng yêu cầu của bài đã cho học sinh chọn từ để đặt câu với từ đó. Giáo viên cho học sinh làm việc cá nhân. * Cho học sinh so sánh từ láy, từ ghép: Chốt : Từ bao giờ cũng có nghĩa vì nó là đơn vị nhỏ nhất để đặt câu . -Từ láy, từ ghép đều là từ có nghĩa. Từ láy là phối hợp những tiếng có phụ âm đầu, vần hoặc cả âm đầu và giống nhau gọi là từ láy. Từ ghép là ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau, đó là từ ghép. Dựa vào cấu tạo trên mà học sinh có thể xác định từ ghép và từ láy. Có thể lấy thêm ví dụ : + Từ ghép: Cơn mưa, nhà cửa, bông hoa... + Từ láy: Luộm thuộm, chăm chỉ... c. Luyện tập các bài có dạng về tính từ, động từ, danh từ. Trong đó chương trình sách giáo khoa cũng lựa chọn những tình huống giao tiếp gắn bó với cuộc sống gần gũi của học sinh. Ví dụ 1: Viết họ và tên 3 bạn nam, 3 bạn nữ trong lớp em. Họ và tên các bạn ấy là danh từ chung hay danh từ riêng? Vì sao? Với bài này nên gợi ý học sinh: Xác định tên của bạn mình, viết, ghi rõ họ, tên. Lưu ý đó là danh từ chung hay danh từ riêng. Cho học sinh làm việc cá nhân, nêu miệng. Phần học này học sinh thường hay mắc lỗi ở vạch danh từ chung. Yêu cầu các em nêu lại danh từ chung là gì ? Dùng phép “suy” để học sinh áp dụng vào bài của mình . Ví dụ 2: Gạch dưới các động từ trong đoạn văn sau: Yiết Kiêu đến kinh đô yết kiến vua Trần Nhân Tông Nhà vua: Trẫm cho nhà ngươi nhận một loại binh khí Yết Kiêu: Thần chỉ xin một chiếc dùi sắt Nhà vua: Để làm gì ? Yết Kiêu: Để dùi những chiếc thuyền của giặc vì thần có thể lặn hàng giờ dưới nước. -Yêu cầu học sinh làm việc theo nhóm, các nhóm thảo luận rồi trình bày trước lớp. Lưu ý trong 2 từ “dùi” thì từ dùi đứng sau là động từ . Lấy ví dụ trường hợp khác. Người ta đục cái lỗ để nước đục chảy ra. Trong 2 từ “đục” thì từ đục đứng sau là động từ . Ví dụ 3 : Tìm những từ ngữ biểu thị mức độ của đặc điểm, tính chất được gạch chân trong đoạn văn sau: Hoa cà phê thơm đậm và ngọt nên mùi hương thường theo gió bay đi rất xa. Nhà thơ Xuân Diệu chỉ có một lần đến đây ngắm nhìn hoa cà phê đã phải thốt lên. Hoa cà phê thơm lắm em ơi Hoa cùng một điệu với hoa nhài Trong ngà trắng ngọc, xinh và sáng. Như miệng em cười đâu đây thôi... Đây là bài tập để rèn luyện về tính từ và bài này hơi trừu tượng với học sinh Cho các em phân tích đề bài trước vì yêu cầu của bài không quen thuộc với học sinh . Tìm những từ biểu thị mức độ của đặc điểm tính chất của các từ gạch chân cụ thể : Hoa cà phê thơm như thế nào ? (thơm đậm và ngọt ) nên mùi hương bay đi rất xa. Lần lượt học sinh tìm và trình bày cá nhân . Thơm – lắm ; Trong – ngà ; Trắng – ngọc Như vậy các em thấy quen thuộc với cách làm của bài này. d. Củng cố khắc sâu mở rộng luyện các dạng bài tập về câu. Với dạng bài này cũng được lựa chọn với thực tiễn sinh động hàng ngày để học sinh biết đặt câu đúng, phù hợp với tình huống giao tiếp, đảm bảo lịch sự khi đặt câu. 1. Câu kể. Ví dụ 1: Đặt một vài câu kể để: a) Kể việc làm hàng ngày sau khi đi học về. b) Tả chiếc bút em đang dùng. c) Trình bày ý kiến của e ... cảm để bày tỏ sự thán phục. b. Vào ngày sinh nhật của em, có một bạn cũ đã chuyển trường từ lâu bỗng nhiên tới chúc mừng em. Hãy đặt câu cảm để bày tỏ sự ngạc nhiên và vui mừng. Tổ chức cho học sinh làm việc cặp đôi và đóng vai trò hỏi đáp, cả lớp nhận xét bổ sung . a. Ôi, bạn giỏi quá! b. Ôi, bất ngờ quá, tớ cảm ơn bạn! Cho học sinh suy nghĩ tìm thêm các tình huống khác đặt câu cảm, nêu cá nhận để các bạn nhận xét . Ví dụ 2: Những câu cảm sau đây bộc lộ cảm xúc gì? a. Ôi, bạn Nam đến kìa! b. ồ, bạn Nam thông minh quá! c. Trời, thật là kinh khủng! Phần này tôi cho học sinh làm việc cá nhân : - B1: Nhận xét ý nghĩa của câu cảm. - B2: Tìm cảm xúc của mỗi câu. - B3: Rút ra kết luận chung về câu cảm. e. Mở rộng khắc sâu cách dùng trạng ngữ trong câu. Dạng bài tập: - Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu. - Thêm trạng ngữ chỉ thời gian cho câu. - Thêm trạng ngữ chỉ nguyên nhân cho câu. - Thêm trạng ngữ chỉ mục đích cho câu. - Thêm trạng ngữ chỉ phương tiện cho câu. Ví dụ 1: Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu: a)................, em giúp bố mẹ làm những công việc gia đình b)................, em rất chăm chú nghe giảng và hăng hái phát biểu. c)................., hoa đã nở. Đối với dạng bài tập này cần tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm (3 nhóm ứng với 3 tổ), mỗi tổ một câu. Gợi ý ( học sinh yếu): Em giúp bố mẹ làm những công việc gia đình tại đâu? Học sinh rất dễ phát hiện vì đây là các tình huống rất quen thuộc với học sinh nên cũng không nhất thiết phải hướng dẫn cụ thể. Tương tự như vậy là trạng ngữ chỉ thời gian cũng rất đơn giản. Với trạng ngữ chỉ mục đích học sinh có thể mắc. Ví dụ 2: Tìm các trạng ngữ thích hợp chỉ mục đích để điền vào chỗ trống: a).............., xã em vừa đào một con mương. b).............., chúng em quyết tâm học tập và rèn luyện thật tốt. c)..............., em phải năng tập thể dục. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh đến việc hiểu: -Mục đích của đào mương để làm gì? -Quyết tâm..........tốt để dành được gì? - Tập thể dục có lợi gì? Ví dụ 3: Trạng ngữ chỉ phương tiện có dạng bài tập: Tìm trạng ngữ chỉ thời gian trong các câu sau: - Bằng một giọng thân tình, thầy khuyên chúng em gắng học bài, làm bài đầy đủ. - Với óc quan sát tinh tế và đôi bàn tay khéo léo, người hoạ sĩ dân gian đã sáng tạo nên những bức tranh làng Hồ nổi tiếng. Học sinh đã biết: Trạng ngữ chỉ phương tiện thường mở đầu bằng các từ “bằng, với” và trả lời cho các câu hỏi: bằng cái gì, với cái gì? Bài này nên cho học sinh làm việc cá nhân, dùng bút chì gạch chân trạng ngữ và nêu miệng trước lớp . Như vậy mức độ khó của bài tập khong phụ thuộc vào các loại, các dạng bài tập mà phụ thuộc vào chính ngữ liệu đưa ra cho học sinh. Với các bài tập Luyện từ và câu của học sinh lớp 4. Nhiều yêu cầu trong sách giáo khoa cần phân tích cho nhiều đối tượng học sinh. Đối với học sinh khá, giỏi cần gài thêm hoạt động tiếp nối. Với học sinh trung bình, học sinh yếu chọn những ngữ liệu cụ thể rõ ràng để học sinh dễ xác nhận. Ví dụ: Với dạng bài mở rộng vốn từ : ý chí – nghị lực. Viết một đoạn văn ngắn nói về một người có ý chí, nghị lực nên đã vượt qua nhiều thử thách, đạt được thành công. -Với học sinh khá, giỏi cho học sinh phân tích yêu cầu đề bài sau đó viết ngay vào nháp. -Với học sinh trung bình và yếu, hướng dẫn học sinh sử dụng các từ ngữ thuộc chủ đề ý chí – nghị lực đã học để viết. Hỏi học sinh về người em định viết (học sinh yếu cần hỏi về người em định viết có những phẩm chất gì). Quan tâm đến đối tượng học sinh trong giảng dạy chính là chú ý đến việc nâng cao chất lượng học sinh giỏi để bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đại trà. Đó là việc làm quan trọng và không thể thiếu trong quá trình giảng dạy. Một điều đáng quan tâm đó là việc trình bày của học sinh. Các em làm bài có thể tốt nhưng cách trình bày bố cục bài làm của học sinh còn là cả một vấn đề cần chấn chỉnh. Trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và tích cực tìm tòi tôi đã tiến hành khảo sát để xem sự chuyển biến của học sinh sau khi đã được hoạt động sôi nổi trong giờ Luyện từ và câu giải quyết các bài tập với lớp 4A . Đề bài : Đọc thầm bài “Về thăm bà” và trả lời câu hỏi sau: 1) Trong bài “Về thăm bà” từ nào cùng nghĩa với từ “hiền” 2) Câu “Lần nào trở về với bà, Thanh cũng thấy bình yên và thong thả như thế” có mấy động từ, tính từ? a. Một động từ, 2 tính từ. Các từ đó là: - Động từ . - Tính từ . b. Hai động từ, 2 tính từ. Các từ đó là: - Động từ . - Tính từ . c. Hai động từ, 1 tính từ. Các từ đó là: - Động từ . - Tính từ . 3) Câu “Cháu đã về đấy ư ?” được dùng làm gì? a. Dùng đề hỏi. b. Dùng để yêu cầu, đề nghị. c. Dùng thay lời chào. 4) Trong câu “ Sự im lặng làm Thanh mãi mới cất được tiếng gọi khẽ” bộ phận nào là chủ ngữ? a. Thanh b. Sự yên lặng c. Sự yên lặng làm Thanh. PHầN III : Kết LUậN . A. KếT QUả : Thực hiện sáng kiến này, khi học sinh đã được củng cố, khắc sâu, mở rộng và rèn kĩ năng luyện tập thực hành về các dạng bài tập “Luyện từ và câu” lớp 4 tôi thấy kết quả của việc làm đó như sau : - Học sinh được tổ chức hoạt động một cách độc lập, tìm tòi kiến thức, tầm nhận thức đối với mọi đối tượng học sinh là phù hợp nên học sinh tiếp thu một cách có hiệu quả. - Các em biết dựa vào kiến thức lý thuyết để vận dụng làm các bài tập một cách chủ động. - Với phương pháp tổ chức này học sinh nắm kiến thức một cách sâu sắc, có cơ sở, được đối chứng qua nhận xét của bạn, của giáo viên. - Các em đã hình thành được thói quen đọc kỹ bài, xác định yêu cầu của bài. Không còn tình trạng bỏ sót yêu cầu của đề bài. - Học sinh có ý thức rèn cách trình bày sạch sẽ, khoa học, biết dùng từ, đặt câu hợp lý. Ngoài ra học sinh còn có thêm thói quen kiểm tra, soát lại bài của mình. - Qua việc giảng dạy theo dõi kết quả của học sinh qua các giờ kiểm tra, bài kiểm tra định kỳ của học sinh tôi thấy: Học sinh sẵn sàng đón nhận môn “Luyện từ và câu” bất kỳ lúc nào. Điều đó nói lên học sinh đã bắt đầu yêu thích môn học, mạnh dạn nêu ý kiến của mình . - Tuy kết quả nêu trên còn hết sức sơ lược và ở phạm vi nhỏ, song nó cũng góp phần động viên tôi trong công tác giảng dạy học sinh nói chung, phát hiện bồi dưỡng những học sinh khá, giỏi, phụ đạo học sinh yếu nói riêng. Bé nhỏ như vậy nhưng vô cùng quan trọng đối với một giáo viên còn non nớt kinh nghiệm như tôi trong việc tháo gỡ khó khăn, trong việc tìm ra phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập “Luện từ và câu” cho học sinh của mình. Kết quả khảo sát chất lượng cuối năm của 27 học sinh lớp 4A trường Tiểu học đồng Thành như sau : XL Giỏi Khá Trung bình Yếu SL % SL % SL % SL % Đầu năm 2 7,4 % 4 14,8 % 17 63 % 4 14,8 % Cuối HKI 3 11,1% 6 22,22% 16 59,3% 2 7,4% Cuối năm 5 18,5 % 8 29,6 % 14 51,9 % 0 0 % B. Bài học kinh nghiệm : Dạy học các dạng bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4 giúp học sinh nắm được kiến thức trong phân môn “Luyện từ và câu” cung cấp: Học sinh hiểu được từ mới, phát triển kĩ năng, kỹ xảo sử dụng từ ngữ, học sinh còn biết nhận diện xác định các dạng bài tập, phân tích kỹ, chính xác yêu cầu của đề bài, từ đó có hướng cho hoạt động học tập của mình. Để đạt được các điều đó, người giáo viên cần chú ý: - Trong quá trình giảng dạy giáo viên không nên nóng vội, mà phải bình tĩnh trong thời gian không phải ngày một ngày hai. Đặc biệt luôn xem xét phương pháp giảng dạy của mình để điều chỉnh phương pháp sao cho phù hợp với việc nhận thức của học sinh, gây được hứng thú học tập cho các em. - Phải nghiên cứu để nhận thức rõ về vị trí, nhiệm vụ của phần kiến thức vừa dạy. - Lưu ý quá trình giảm tải đề điều chỉnh sao cho phù hợp với đặc điểm học sinh lớp mình, đề ra hướng giải quyết cho việc cân chỉnh thống nhất giảm tải. - Không ngừng học hỏi trao đổi với đồng nghiệp để nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy và học nhằm nâng cao chất lượng. Trong giảng dạy, giáo viên không được áp đặt học sinh mà coi nhiệm vụ học của học sinh là quan trọng, là nhân tố chủ yếu cho kết quả giáo dục. Luôn gợi mở khám phá tìm tòi biện pháp tốt nhất cho học sinh nắm chắc kiến thức. Rèn cho học sinh cách tư duy thông minh, sáng tạo, làm việc độc lập, nâng cao kết quả tự học của mình: Tạo cho học sinh có niềm vui trong học tập, có hứng thú đặc biệt trong học tập. Giáo viên luôn luôn giải quyết tình huống vướng mắc cho học sinh. - Giáo viên phải tôn trọng nghiêm túc thực hiện giáo dục, giảng dạy theo nguyên tắc từ những điều đơn giản mới đến nâng cao, khắc sâu...Để học sinh nắm vững việc giải quyết các bài tập “Luyện từ và câu”, giáo viên cũng cần lưu ý điểm sau: + Tìm ra phương pháp tổ chức sao cho phù hợp với từng dạng bài tập. + Phân biệt cho học sinh hướng giải quyết cho các dạng bài khác nhau. Học sinh cần nắm được các bước tiến hành một bài tập. Cần tổ chức cho học sinh theo các hình thức tổ chức có thể theo nhóm, cá nhân, có thể làm việc cả lớp để phát huy tốt hiệu quả giờ dạy. - Lưu ý cho học sinh cách trình bày sạch sẽ, khoa học, rèn chữ viết đẹp, đúng chính tả cho học sinh. Việc dạy các bài tập “Luyện từ và câu”cho học sinh lớp 4 là vấn đề hết sức quan trọng vì thời gian có hạn và năng lực trình độ bản thân còn nhiều hạn chế nên tôi mới chỉ nghiên cứu được tìm ra được một số biện pháp dạy các dạng bài tập “Luyện từ và câu”. Phần nghiên cứu có thể chưa sâu, chưa sát, tôi thiết nghĩ nếu chỉ nghiên cứu trong phạm vi của bài tập này thì chưa đủ . Bài tập này chỉ có thể áp dụng, vận dụng trong phạm vi ở tiết “Luyện từ và câu” của học sinh lớp 4. Trong quá trình giảng dạy cần phải kiên trì hướng dẫn để học sinh luyện tập và giúp các em sửa chữa sai sót . Thực hiện sáng kiến này, tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào công tác dạy và học môn luyện từ và câu, một môn học tương đối khó nhưng mang nhiều ý nghĩa .Mong muốn các em say mê học tập, ham hiểu biết, tìm tòi để thấy cài hay, cái đẹp trong ngôn ngữ và tình cảm con người .Từ đó thêm yêu những gì mà mình đã có để biết giữ gìn và bảo vệ . Trên đây là một số biện pháp của tôi rút ra trong quá trình dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu lớp 4 .Khả năng có hạn, kinh nghiệm chưa nhiều, nên sáng kiến này không tránh khỏi thiếu sót .Rất mong sự góp ý của hội đồng khoa học để bài viết được hoàn thiện hơn . Xin chân thành cảm ơn ! Đồng Thành ngày 10 tháng 4 năm 2011 . Người viết . Nguyễn Thị Thủy
Tài liệu đính kèm: