Theo Lê – nin:” Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người” và làm phương tiện tư duy. Với tư cách làm phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người và làm phương tiện tư duy. Tiếng Việt trở thành trung tâm trong nhà trường tiểu học. Với tư cách là một trung tâm trong nhà trường tiểu học, Tiếng Việt vừa là đối tượng vừa là công cụ để học Tiếng Việt và học các môn học khác. Tương lai học sinh có thể làm nhiều việc khác nhau, nhưng trước hết học sinh phải có kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết tiếng mẹ đẻ tốt. Tiếng việt ở trường phổ thông có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh.
Tập Đọc là một phân môn có vị trí đặc biệt trong chương trình Tiếng Việt tiểu học. Nó đảm nhận việc hình thành và phát triển cho học sinh kĩ năng đọc. Đây là kĩ năng bắt buộc đối với mọi học sinh trong nhà trường tiểu học. Biết đọc con người sẽ tiếp thu được mọi thành tựu, mọi mặt trong đời sống, qua nhiều thế hệ được ghi lại bằng chữ viết. Biết đọc con người sẽ có phương tiện để học tập nâng cao nhận thức, tích lũy kiến thức phát triển tư duy trên cơ sở đó hình thành nhân cách cho học sinh. Ở tiểu học đọc là một tro ng những mục tiêu hàng đầu mà chương trình Tiếng Việt phải hướng tới nhằm giúp các em chiếm lĩnh được một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Đọc vừa là mục tiêu nhưng cũng là phương tiện đắc lực cho các em học các môn học khác, đồng thời nâng khả năng tự học cho các em.
Đọc một cách có ý thức sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi dưỡng cho các em lòng yêu cái thiện, cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách lôgic cũng như biết tư duy có hình ảnh. Như vậy dạy đọc còn gồm các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG ĐỌC NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY PHÂN MÔN TẬP ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 4 PHẦN MỞ ĐẦU I. Lí do chọn đề tài 1/ Ý nghĩa, tầm quan trọng của phân môn Tập Đọc Theo Lê – nin:” Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người” và làm phương tiện tư duy. Với tư cách làm phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người và làm phương tiện tư duy. Tiếng Việt trở thành trung tâm trong nhà trường tiểu học. Với tư cách là một trung tâm trong nhà trường tiểu học, Tiếng Việt vừa là đối tượng vừa là công cụ để học Tiếng Việt và học các môn học khác. Tương lai học sinh có thể làm nhiều việc khác nhau, nhưng trước hết học sinh phải có kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết tiếng mẹ đẻ tốt. Tiếng việt ở trường phổ thông có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Tập Đọc là một phân môn có vị trí đặc biệt trong chương trình Tiếng Việt tiểu học. Nó đảm nhận việc hình thành và phát triển cho học sinh kĩ năng đọc. Đây là kĩ năng bắt buộc đối với mọi học sinh trong nhà trường tiểu học. Biết đọc con người sẽ tiếp thu được mọi thành tựu, mọi mặt trong đời sống, qua nhiều thế hệ được ghi lại bằng chữ viết. Biết đọc con người sẽ có phương tiện để học tập nâng cao nhận thức, tích lũy kiến thức phát triển tư duy trên cơ sở đó hình thành nhân cách cho học sinh. Ở tiểu học đọc là một tro ng những mục tiêu hàng đầu mà chương trình Tiếng Việt phải hướng tới nhằm giúp các em chiếm lĩnh được một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Đọc vừa là mục tiêu nhưng cũng là phương tiện đắc lực cho các em học các môn học khác, đồng thời nâng khả năng tự học cho các em. Đọc một cách có ý thức sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi dưỡng cho các em lòng yêu cái thiện, cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách lôgic cũng như biết tư duy có hình ảnh. Như vậy dạy đọc còn gồm các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. 2/ Thực tiễn việc dạy học hiện nay về việc rèn đọc cho học sinh lớp 4 Hiện nay, các nhà trường tiểu học đang thực hiện giảng dạy theo nội dung chương trình SGK mới, vì mới đưa vào giảng dạy nên giáo viên không tránh khỏi lúng túng trong việc sử dụng và khai thác SGK. Mặc dù trong những năm gần đây tỉ lệ giáo viên đi học để nâng cao trình độ đào tạo tăng nhiều, góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Tuy nhiên hầu hết số giáo viên được đào tạo để nâng chuẩn đều vừa dạy vừa học theo các hình thức đào tạo tại chức, đào tạo từ xa nên việc học tập có nhiều hạn chế. Bộ giáo dục và đào tạo cũng đã có các chương trình bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng về phương pháp dạy học. Nhưng việc tiếp cận với phương pháp dạy học mới, phát huy tính tích cực của học sinh còn hạn chế. Không ít giáo viên chưa nắm kĩ phương pháp đặc thù của các môn học nói chung và phân môn Tập Đọc nói riêng. Cho nên việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh còn nhiều hạn chế. Học sinh của chúng ta chưa đọc như mong muốn, các em chưa đáp ứng yêu cầu của kĩ năng đọc. Một số giáo viên còn lúng túng khi dạy Tập đọc: VD như cần đọc bài với giọng thế nào? Làm thế nào để chữa lỗi phát âm cho học sinh? Làm thế nào để các em đọc hay hơn, diễn cảm hơn?... Đó là những trăn trở của mỗi giáo viên trong giờ Tập Đọc . Chính vì lẽ đó, trong năm học này, tôi đã miệt mài suy nghĩ tìm tòi với mong muốn tìm ra: “Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc nhằm nâng cao chất lượng dạy phân môn Tập đọc cho học sinh lớp 4”. Với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập đọc nói riêng, chất lượng dạy Tiếng Việt nói chung ở địa phương trường chúng tôi. II. Mục đích của đề tài: - Với đề tài này, tôi mong muốn được nâng cao nhận thức của bản thân về việc rèn kỹ năng đọc cho học sinh, tìm ra các biện pháp khắc phục tồn tại, khó khăn, giúp giáo viên soạn giảng linh hoạt, trên cơ sở đó giúp học sinh hình thành kỹ năng đọc tốt, đọc diễn cảm. - Cung cấp những tri thức thực tiễn về tổ chức dạy học Tập đọc cho học sinh lớp 4 - Xem xét tính khả thi của đề tài PHẦN NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận của việc dạy đọc ở tiểu học. 1. Cơ sở tâm sinh lý của việc dạy đọc: Để tổ chức dạy đọc cho học sinh, chúng ta cần hiểu rõ về quá trình đọc, nắm bản chất của kỹ năng đọc. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh hay cơ chế của cách đọc là cơ sở của việc dạy đọc. Đọc bao gồm những yếu tố như tiếp nhận bằng mắt, hoạt động của các cơ quan phát âm, các cơ quan thính giác và thông hiểu những gì được đọc. Kỹ năng đọc là một kỹ năng phức tạp, đòi hỏi một quá trình luyện tập lâu dài. Chỉ có thể xem là đứa trẻ biết đọc khi nó đọc mà hiểu được điều mình đọc. Đọc là hiểu nghĩa của chữ viết. Nếu trẻ không hiểu những từ ta đưa cho chúng đọc, chúng sẽ không có hứng thú đọc và học tập. Học sinh tiểu học không phải bao giờ cũng dễ dàng hiểu được những gì mình đọc. Hầu như sức chú ý đều tập trung vào việc nhận ra mặt chữ, đánh vần để phát thành âm. Còn nghĩa thì chưa đủ thời giờ và sức lực mà nhận biết. Mặt khác, do vốn từ ngữ còn ít, năng lực liên kết thành câu, thành ý còn hạn chế nên việc hiểu và nhớ nội dung còn khó khăn. Đây là cơ sở để đề xuất các biện pháp hình thành năng lực đọc hiểu cho học sinh tiểu học. 2. Cơ sở ngôn ngữ học và văn học của việc dạy đọc. Dạy đọc phải dựa trên những cơ sở ngôn ngữ học, nó liên quan mật thiết với chính âm, chính tả, chữ viết, ngữ điệu; nghĩa của từ, của câu, đoạn, bài; các dấu câu, kiểu câu,... Việc hình thành kỹ năng đọc đúng, đọc diễn cảm và đọc hiểu cho học sinh phải dựa trên những tiêu chuẩn đánh giá một văn bản tốt: tính chính xác, tính đúng đắn và tính thẩm mĩ; dựa trên những đặc điểm về các kiểu ngôn ngữ, các phong cách chức năng, các thể loại văn bản, các đặc điểm về thể loại của tác phẩm văn chương dùng làm ngữ liệu đọc ở Tiểu học. II.Thực trạng dạy học tập đọc. 1. Địa điểm nghiên cứu: Trường Tiểu học Hoàng Văn Thụ thuộc địa bàn dân cư có mặt bằng dân trí chưa cao, học sinh chủ yếu là con em từ nhiều tỉnh phía Bắc đến nhập cư tại đây nên các em còn nói ngọng nhiều do cách phát âm địa phương. 2. Đánh giá thực trạng: Qua thực tế giảng dạy ở khối 4, tôi nhận thấy việc dạy tập đọc còn một số hạn chế. Học sinh lớp tôi năm nay, qua khảo sát đầu năm, tôi thấy chất lượng đọc của các em còn hạn chế ở những điểm sau: - Các em chưa biết ngắt nghỉ ở các câu thơ, các câu dài, giọng đọc còn kéo dài hoặc ngắc ngứ (chiếm khoảng 15,2%). - Chưa biết nhấn giọng ở những từ ngữ gợi tả, gợi cảm của bài đọc (Chiếm khoảng 21,3%). - Chưa biết đọc đúng các câu đối thoại, lời nói của nhân vật (chỉ có khoảng 18,2% số học sinh đọc đúng). - Phát âm sai: đọc ngọng âm đầu l --> n, thanh ngã --> thanh sắc, thanh hỏi -->thanh nặng (chiếm khoảng 35%). - Đọc thừa hoặc thiếu từ (chiếm khoảng 9%). 3. Nguyên nhân của thực trạng: * Về phía giáo viên: - Do trình độ chưa đồng đều, hạn chế khả năng tiếp thu vận dụng phương pháp dạy học mới nên một số giáo viên quen dạy học phương pháp cũ, trong tiết dạy học sinh đọc ít, nhưng phần tìm hiểu nội dung bài chiếm thời gian nhiều hơn, xem nhẹ phần luyện đọc nên đã biến giờ tập đọc thành giờ giảng văn. - Thực tế giáo viên hay gọi những em học sinh khá, giỏi đọc còn những em trung bình, yếu, rụt rè không được đọc nhiều. - Điều kiện giảng dạy còn khó khăn. * Về phía học sinh: - Học sinh đọc chưa đúng (cách ngắt, nhấn giọng) do các em chưa mạnh dạn, tự tin, còn e ngại sợ các bạn cho rằng mình đọc “điệu”. - Do ảnh hưởng tiếng địa phương nên nhiều em đọc ngọng (thành thói quen), các em chưa chủ động sửa lỗi sai của mình. - Một số em hiểu nội dung bài đọc, biết chỗ nhấn, ngắt giọng nhưng khi đọc chưa thể hiện được điều đó, mà đọc theo cảm tính của mình. III. Các biện pháp đề xuất để rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh lớp 4. Trong quá trình giảng dạy ở lớp 4, tôi nhận thấy rằng để hình thành năng lực đọc tốt, đọc hiểu văn bản cho học sinh tiến tới giúp học sinh đọc diễn cảm chính là cái đích của dạy tập đọc mà giáo viên mong muốn, cần phải có những biện pháp để rèn đọc cho học sinh. Vì vậy tôi mạnh dạn xin được trình bày một số biện pháp mà tôi đã sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài nhằm giúp học sinh rèn luyện kĩ năng đọc sau đây: 1.Biện pháp thứ nhất: Khảo sát, phân loại học sinh đầu năm học. Để nắm được khả năng đọc của học sinh, ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành tìm hiểu, phân loại học sinh. Tôi kiểm tra các em về đọc và kiến thức trong bài. Kết quả cụ thể như sau: Số em đọc chưa tốt (ấp úng, đọc ngọng) Số em đọc to, rõ ràng Số em đọc tốt Đầu năm 10/31= 32,3% 15/31= 48,4% 6/31= 19,23 Bên cạnh đó tôi gặp gỡ với giáo viên cũ để trao đổi, từ đó có thêm hiểu biết về khả năng học phân môn Tập đọc của các em. Căn cứ vào khả năng đọc của học sinh, tôi lập thành nhóm học tập. Mỗi nhóm gồm có em khá, em kém để các em giúp đỡ lẫn nhau trong học tập để giáo viên dễ dàng kiểm tra, hướng dẫn các em. 2.Biện pháp thứ hai: Chuẩn bị chu đáo cho giờ học. 2.1 Đối với học sinh: Để giúp các em học tốt một bài tập đọc, cuối tiết dạy tập đọc, tôi thường hướng dẫn các em chuẩn bị một cách chu đáo, cụ thể như sau: - Trước tiên các em cần đọc thành tiêng ít nhất 5 lần, sau đó đọc thầm. Tìm xem bài tập đọc có mấy đoạn (mấy khổ thơ). - Đọc kỹ phần giải nghĩa từ ngữ ở cuối bài. - Tập trả lời miệng các câu hỏi về tìm hiểu nội dung trong sách giáo khoa, từ đó các em có thể nêu được ý chính của bài tập đọc. - Tìm hiểu bài tập đọc thuộc thể loại gì (thơ hay văn xuôi, miêu tả hay truyện kể). Trước khi đọc, bao giờ tôi cũng hướng dẫn cho các em chuẩn bị tâm lí để đọc. Khi ngồi đọc cần ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách nên nằm trong khoảng 30-> 35 cm, cổ và đầu thẳng. Khi được cô giáo gọi đọc, học sinh phải bình tĩnh, tự tin không hấp tấp đọc ngay, cần đọc đủ lớn để cả lớp nghe rõ. Như thế không có nghĩa là đọc quá to hay gào lên. 2.2. Đối với giáo viên: Cùng với phương pháp dạy học mới nói chung, phương pháp dạy phân môn tập đọc nói riêng, kết hợp với kinh nghiệm giảng dạy và sự học hỏi, giúp đỡ của đồng nghiệp, tôi nhận thấy rằng để thành công một tiết tập đọc, truyền thụ một cách khoa học giáo viên cần chuẩn bị những việc sau: - Soạn bài cụ thể, chi tiết rõ hoạt động của thầy, của trò. Xây dựng các phương pháp giảng dạy kết hợp với các phương pháp, phương tiện dạy học một cách linh hoạt để giờ dạy nhẹ nhàng và đạt hiệu quả. - Nắm chắc yêu cầu về rèn đọc ở từng bài. Đọc kỹ bài tập đọc sắp dạy, trao đổi học tập cách đọc của đồng nghiệp, dự kiến cá ... át, hiểu thấu đáo bài đọc, tôi mới tiến hành hướng dẫn các em đọc diễn cảm. Cụ thể như sau: 5.1. Tìm đúng và đọc đúng giọng: vui, buồn, giận giữ, trang nghiêm,...phù hợp với từng ý cơ bản của bài đọc, phù hợp với kiểu câu, thể loại, đọc có cảm xúc cao. * Với bài tập đọc miêu tả: tôi hướng dẫn các em biết nhấn giọng ở từ ngữ biểu cảm, gợi tả, từ chỉ đặc điểm, tính chất có tác dụng làm nổi bật ý nghĩa của đoạn văn. Ví dụ: Bài: “ Hoa học trò”- Tiếng Việt 4- Tập 1 Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh - Đoạn 1 : “Phượng không phải là... con bướm thắm.” Hỏi: - Đoạn 1 diễn tả ý gì nổi bật? - Cần chú ý cách ngắt hơi và nhịp đọc 2 câu dài ở đoạn này ra sao? - Những từ ngữ nào cần nhấn giọng? -Giáo viên chốt ý: Nhịp đọc hơi nhanh, có thể ngắt hơi và nhấn giọng như sau: “ Phượng không phải là một đóa,/ không phải vài cành,/ phượng đây là cả một loạt,/ cả một vùng,/ cả một góc trời đỏ rực.// Mỗi hoa chỉ là phần tử của cái xã hội thắm tươi;// người ta quên đóa hoa,/ chỉ nghĩ đến cây,/ đến hàng,/ đến những tán hoa lớn xòe ra như muôn ngàn con bướm thắm/ đậu khít nhau.// Học sinh trả lời: - Diễn tả số lượng lớn của hoa phượng. Học sinh trả lời: - Nhịp đọc hơi nhanh, ngắt hơi sau dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm phẩy. Học sinh trả lời Tiến hành tương tự như đoạn 1, với đoạn 2, 3 tôi để học sinh nhận ra cách đọc và đọc diễn cảm. Chẳng hạn: + Đoạn 2: đọc nhấn giọng ở những từ ngữ gợi tả vẻ đẹp của lá phượng : xanh um, mát rượi, ngon lành, e, xòe ra. Cụm từ “Mùa hoa phượng bắt đầu.”; “Hoa nở lúc nào mà bất ngờ vậy?” đọc với vẻ ngạc nhiên thể hiện tâm trạng ngạc nhiên của cậu học trò (nhấn giọng: “bất ngờ vậy”). + Đoạn 3: Gợi tả vẻ đẹp của hoa phượng. Đọc nhấn giọng ở những từ ngữ ; đỏ còn non, tươi dịu, đậm dần, mạnh mẽ kêu vang, rực lên. Chú ý thể hiện tình cảm yêu thích, giọng vui. * Với bài tập đọc là truyện kể: Tôi hướng dẫn các em đọc đúng lời của nhân vật và chuyển giọng linh hoạt cho phù hợp với từng nhân vật để làm rõ tính cách của nhân vật đó. Ví dụ: Khi dạy bài “Những hạt thóc giống” - Tiếng Việt 4 - Tập 1. Lời người dẫn chuyện: đọc với giọng nhẹ nhàng, chậm rãi, thấp hơn lời nói của vua và Chôm. Lời của Chôm lúc tâu vua : ngây thơ, lo lắng: ‘‘- Tâu bệ hạ ! Con không làm sao cho thóc nảy mầm được.” Lời nói của vua lúc giải thích thóc đã luộc kĩ : ôn tồn: “ - Trước khi phát thóc giống ta đã cho luộc kĩ rồi. Lẽ nào thóc ấy còn mọc được? Những xe thóc đầy ắp kia đâu phải thu được từ thóc giống của ta!” Lời nói của vua lúc khen ngợi Chôm: dõng dạc: “- Trung thực là đức tính quý nhất của con người. Ta sẽ truyền ngôi cho chú bé trung thực và dũng cảm này.” Để rèn khả năng đọc đúng giọng của các nhân vật, tôi tổ chức cho các em đọc phân vai theo nhóm, thi đua, bình chọn bạn, nhóm đọc hay nhất. Trên cơ sở đọc và sửa trong nhóm, đọc trước lớp, các em đã biết đọc đúng, thể hiện rõ tính cách từng nhân vật. 5.2. Nhấn giọng vào điệp ngữ: Ví dụ: Bài; “ Tre Việt Nam” - Tiếng Việt 4 - Tập 1 Trên cơ sở học sinh đã hiểu những câu thơ ở phần kết thúc bài (đoạn 4): Khẳng định màu xanh vĩnh cửu của tre Việt Nam, sức sống bất diệt của con người Việt Nam, truyền thống cao đẹp của dân tộc Việt Nam, tôi hướng dẫn học sinh cách nhấn giọng vào điệp ngữ “ Mai sau”. Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh - Cách ngắt nhịp, nghỉ hơi ở đoạn này có gì đặc biệt ? - Cần nhấn giọng ở những từ ngữ nào để làm bật ý thơ ? - Giáo viên nhận định chốt ý : Nên ngắt nhịp, nghỉ hơi, nhấn giọng như sau : “ Năm qua đi,/ tháng qua đi/ Tre già măng mọc/ có gì lạ đâu.// Mai sau,/ Mai sau,/ Mai sau,/ Đất xanh/tre mãi/ xanh màu tre xanh.// -Học sinh nêu. -Học sinh nêu. 5.3. Nhấn giọng vào đảo ngữ : Ví dụ: Bài: “Đường đi Sa Pa” - Tiếng Việt 4- Tập 2. Để giúp các em cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ và huyền ảo của SaPa, tôi hướng dẫn các em đọc nhấn giọng những chỗ đảo vị ngữ (trắng long lanh). “Thoắt cái, trắng long lanh một cơn mưa tuyết trên những cành đào, lê, mận.” 5.4. Nhấn giọng vào hình ảnh so sánh: Ví dụ: Bài: “Con chuồn chuồn nước” - Tiếng Việt 4- Tập 2. Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh -Chú cuồn chuồn nước được miêu tả bằng hình ảnh so sánh nào ? -Em thích hình ảnh so sánh nào ? Vì sao? -Khi đọc cần lưu ý điều gì? -Giáo viên chốt cách đọc: “ Cái đầu tròn và hai con mắt long lanh như thủy tinh. Thân chú nhỏ và thon vàng như màu vàng của nắng mùa thu.” -Học sinh nêu: “ Bốn cái cánh...phân vân.” -Học sinh nêu. -Học sinh nêu. 5.5. Nhấn giọng những từ ngữ mà tác giả đã dùng những biện pháp nhân hóa. Ví dụ: Bài: “Bè xuôi sông La” - Tiếng Việt 4- Tập 2. Nhà thơ đã nhân hóa sông La, gọi tên sông một cách trìu mến như gọi một con người (nhấn giọng từ “ơi”). “ Sông La ơi sông La” Vẻ đẹp của dòng sông La chẳng khác nào vẻ đẹp của một người con gái quê hương. Vì vậy, khi đọc cần nhấn giọng từ “trong veo”, “mươn mướt”. “ Sông La ơi sông La Trong veo như ánh mắt Bờ tre xanh im mát Mươn mướt đôi hàng mi.” Trong quá trình rèn đọc diễn cảm, tôi lưu ý học sinh nhấn giọng không có nghĩa là đọc to lên mà chỉ cần phát âm mạnh hơn hoặc ngân dài một chút là được. IV. Kết quả đạt được * Về phía học sinh: Qua 5 năm thực hiện chương trình mới sách giáo khoa lớp 4, tôi nhận thấy phần luyện đọc của học sinh được các tác giả biên soạn có tính ưu việt hơn so với chương trình cũ, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ học. Được sự chỉ đạo của Ban giám hiệu, sự cố gắng nỗ lực của bản thân, với cách làm trên tôi đã tiến hành thường xuyên và thực sự chu đáo nên năm học này theo chủ quan đánh giá của tôi đã thu được một số kết quả sau: - Các em học sinh trong lớp đều rất thích học tập đọc và thích được gọi đọc, không khí những tiết tập đọc rất sôi nổi đặc biệt là phần luyện đọc diễn cảm. - Các em được phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo, hứng thú trong các giờ học, được tự tìm ra kiến thức mới dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Từ đó bồi dưỡng cho các em trí thông minh, có năng lực cảm thụ văn học. - Chất lượng đọc của lớp được nâng cao rất nhiều. Hiện tại hiện tượng đọc ngọng giảm đi rõ rệt. Học sinh lưu loát, đọc có ngữ điệu, nhiều em có giọng đọc hay, lôi cuốn người nghe như em: Đoan Trang, Tấn Đạt, Cẩm Tú, Phạm Anh, Minh Đức,...Trong các lần kiểm tra đọc, các em thường đạt điểm 9-10. Ngay cả em Hằng, Tuấn, Nam, Hoàng đọc yếu nhưng nhờ học tập có phương pháp và được các bạn giúp đỡ nên các em có tiến bộ, đọc khá hơn rất nhiều. Chất lượng này được thể hiện qua kết quả như sau: Tổng số HS Lần kiểm tra Điểm 9 – 10 Điểm 7 – 8 Điểm 5 – 6 Điểm 4 trở xuống SL % SL % SL % SL % 31 Đầu năm 4 12,9 11 12 38,7 4 12,9 Giữa HKI 8 25,8 12 38,7 7 22,5 2 6,4 Cuối HKI 10 32,2 14 45,2 6 19,3 1 3,2 Giữa HKII 12 38,7 14 45,2 5 16,1 0 0 Cuối HKII 14 45,2 14 45,2 3 9,7 0 0 Như vậy việc rèn học sinh đọc tốt góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt ở lớp tôi. Cụ thể: Kết quả HLM-KI môn Tiếng Việt: Giỏi: 14em =45,1 % Khá: 12 em = 38,6 % TB : 6 em =19,3 % Từ việc đọc tốt, đọc hay trong giờ tập đọc, các em vận dụng tốt khi đọc bài chính tả, đoạn thơ, truyện vui, đặc biệt có khả năng nói tốt trong giờ Tập làm văn, kể chuyện. - Từ kết quả thu được thông qua bảng thống kê trên, dù kết quả chưa cao lắm. Nhưng tôi thấy rằng đề tài đã đem lại kết quả tương đối khả quan. Kết quả này cho thấy các biện pháp được đề xuất trong đề tài mang tính khả thi. Tiết dạy được tổ khối chuyên môn đánh giá cao. Nếu đề tài được thực nghiệm một cách qui mô hơn, phạm vi rộng hơn, tôi tin rằng nó sẽ mang lại kết quả cao hơn trong điều kiện thực tế của địa phương trường chúng tôi. Khi thực hiện đề tài này đã giúp tôi giảng dạy tốt hơn, tự tin hơn và đạt hiệu quả cao hơn. Góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, nâng cao chất lượng dạy – học của giáo viên và học sinh. PHẦN KẾT LUẬN * Có được kết quả như trên, bên cạnh sự nỗ lực của giáo viên,ý thức vươn lên trong học tập của học sinh còn có sự chỉ đạo đúng hướng, nhiệt tình, sát sao của Ban Giám hiệu nhà trường, của lãnh đạo các cấp. Chính vì vậy mà giờ học Tập đọc không phải là giờ dạy khó, giúp các em phấn khởi, tích cực, tự tin trong học tập, giúp chất lượng đọc được nâng cao, làm nền tảng cho khả năng giao tiếp mạch lạc, truyền cảm của các em sau này. Để giúp học sinh đọc đúng, đọc hay, tôi không chỉ rèn đọc cho các em trong giờ tập đọc mà còn chú ý rèn đọc cho các em trong các giờ học khác, như giờ: Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn, Kể chuyện. Rèn kĩ năng đọc cho HS là trách nhiệm của mỗi thầy cô giáo chúng ta . Nói đúng, viết đúng Tiếng Việt là góp phần giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, góp phần bảo vệ di sản văn hóa Việt Nam Qua tìm tòi, nghiên cứu và vận dụng một số biện pháp rèn đọc cho học sinh đã nêu trên, tôi thấy chất lượng đọc của các em ngày càng được nâng cao. Dạy cho học sinh đọc tốt, người giáo viên sẽ tiếp thêm một phương tiện để các em khám phá ra cái hay, cái đẹp của văn chương và cuộc sống. * Kiến nghị: Để các biện pháp trên được thực hiện có hiệu quả, tôi xin đề xuất một số khuyến nghị sau: - Cần quan tâm bồi dưỡng thường xuyên đội ngũ giáo viên về mặt kiến thức cũng như chuyên môn để đội ngũ giáo viên có đủ khả năng, trình độ đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi trong giai đoạn mới hiện nay. - Bổ sung thêm đồ dùng dạy học: Băng đĩa , tranh ảnh, máy chiếu đa năng,... để giáo viên học hỏi, vận dụng vào tiết dạy đạt kết quả rèn đọc tốt hơn. - Tổ chức các buổi giao lưu, thi đọc hay, đọc diễn cảm để động viên phong trào rèn đọc cho học sinh. - Về phía giáo viên cũng cần nghiên cứu, tham khảo thêm các tài liệu có liên quan đến dạy và học môn Tiếng Việt. Lập kế hoạch và điều chỉnh dạy học phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất, trình độ HS lớp mình. Mạnh dạn áp dụng các phương pháp dạy học mới vào giảng dạy. Phải đầu tư sức lực, trí tuệ cho công tác soạn giảng, có soạn tốt thì mới dạy tốt. Đề tài đã được thực hiện bằng sự cố gắng hết sức của bản thân tôi, cùng với sự giúp đỡ của nhiều thầy cô và các bạn đồng nghiệp. Tuy nhiên do bản thân còn hạn chế về nhiều mặt nên chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót. Rất mong được sự góp ý chỉ bảo của quí thầy cô và các bạn đồng nghiệp để đề tài được được hoàn thiện hơn, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học hiện nay. Tôi xin chân thành cảm ơn. Lộ 25, ngày 26 tháng 7 năm 2009 Người viết Nguyễn Thị Nhung
Tài liệu đính kèm: