Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói trong giờ Tập làm văn cho học sinh lớp 5

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói trong giờ Tập làm văn cho học sinh lớp 5

Xuất phát từ mục tiêu của giáo dục là coi giáo dục đào tạo cùng với khoa học công nghệ là nền tảng, là động lực của sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá Đất nước, phát huy yếu tố con người phát triển toàn diện là yếu tố cơ bản cho sự phát triển lâu dài và bền vững trên mọi lĩnh vực. Trọng tâm là việc chú trọng đến con người được đào tạo là con người có đầy đủ năng lực, trí tuệ, có đạo đức thích nghi được với những thay đổi, có kỹ năng hành động, biết “Học thường xuyên, học suốt đời” và có ý tưởng “học để biết, học để làm, học để cùng sống với nhau và học để làm người”. Để đáp ứng nhu cầu của xã hội là đào tạo ra những con người phát triển toàn diện thì việc dạy học ở trường Tiểu học chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng, bởi vì bậc học Tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục Quốc dân, do đó đòi hỏi phải dạy đúng, dạy đủ các môn học theo quy định nhằm giúp các em có kiến thức sâu rộng để có thể tiếp cận được với nền khoa học tiên tiến hiện nay là “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”. Các môn học ở Tiểu học đều có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau. Môn Tiếng Việt ở Tiểu học có vị trí rất đặc biệt quan trọng, nó chiếm thời lượng nhiều hơn cả so với các môn học khác. Phương tiện chủ yếu của môn Tiếng Việt là ngôn ngữ, là công cụ không thể thiếu để giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày và là phương tiện để học sinh có thể tiếp cận và học tốt được các môn học khác. Ngôn ngữ phát triển thì tư duy cũng phát triển.

 

doc 23 trang Người đăng haiphuong68 Lượt xem 531Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói trong giờ Tập làm văn cho học sinh lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I: Đặt vấn đề
Xuất phát từ mục tiêu của giáo dục là coi giáo dục đào tạo cùng với khoa học công nghệ là nền tảng, là động lực của sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá Đất nước, phát huy yếu tố con người phát triển toàn diện là yếu tố cơ bản cho sự phát triển lâu dài và bền vững trên mọi lĩnh vực. Trọng tâm là việc chú trọng đến con người được đào tạo là con người có đầy đủ năng lực, trí tuệ, có đạo đức thích nghi được với những thay đổi, có kỹ năng hành động, biết “Học thường xuyên, học suốt đời” và có ý tưởng “học để biết, học để làm, học để cùng sống với nhau và học để làm người”. Để đáp ứng nhu cầu của xã hội là đào tạo ra những con người phát triển toàn diện thì việc dạy học ở trường Tiểu học chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng, bởi vì bậc học Tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục Quốc dân, do đó đòi hỏi phải dạy đúng, dạy đủ các môn học theo quy định nhằm giúp các em có kiến thức sâu rộng để có thể tiếp cận được với nền khoa học tiên tiến hiện nay là “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”. Các môn học ở Tiểu học đều có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau. Môn Tiếng Việt ở Tiểu học có vị trí rất đặc biệt quan trọng, nó chiếm thời lượng nhiều hơn cả so với các môn học khác. Phương tiện chủ yếu của môn Tiếng Việt là ngôn ngữ, là công cụ không thể thiếu để giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày và là phương tiện để học sinh có thể tiếp cận và học tốt được các môn học khác. Ngôn ngữ phát triển thì tư duy cũng phát triển. 
Môn Tiếng Việt còn giúp cho các em cảm nhận, khám phá ra những nét đẹp về tâm hồn, sự hiểu biết về thế giới xung quanh. Môn Tiếng Việt là cơ sở, là chỗ dựa cho học sinh học tốt các môn học khác. Vì muốn học môn 
nào cũng cần sử dụng kỹ năng nói, đọc, viết mà môn Tiếng Việt là môn bước đầu hình thành kỹ năng này. Trong Tiếng Việt thì phân môn :Tập làm văn lại là môn tổng hợp các kiến thức và kỹ năng của các phân môn: Luyện từ và câu, Chính tả, Kể chuyện. Vì thế, bậc Tiểu học cần rèn luyện cho các em có kỹ năng học tốt phân môn Tập làm văn để giúp các em nắm bắt được cái hay, cái đẹp, biết cảm thụ văn học và có tình yêu quê hương, đất nước và con người.
Như ta đã biết dạy Tập làm văn là nhằm phát triển và hoàn thiện năng lực văn học cho học sinh trên bốn kỹ năng: Nghe, nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi, trong đó kỹ năng nói có vai trò quan trọng trong đời sống học sinh, nó giúp các em hình thành các kỹ năng học tập khác. Vì thế mục đích cao nhất của bài tập Tập làm văn là rèn kỹ năng nói cho học sinh giúp các em sử dụng Tiếng Việt một cách có hiệu quả trong học tập và giao tiếp trong gia đình, nhà trường và xã hội.
Đối với học sinh lớp 5, các em đã có một số vốn kỹ năng nhất định, đã biết phân tích mối quan hệ giữa người với người trong những mối quan hệ khác nhau, để có thể sáng tạo bằng ngôn từ một cái gì đó của mình và thể hiện những khía cạnh của đời sống. Ngôn ngữ nói là ngôn ngữ gợi được cảm xúc trực tiếp, để đưa người nói, người nghe có thể nắm bắt được những nội dung cần trao đổi và để đạt được mục đích của giao tiếp. Qua ngôn ngữ nói ta dễ nhận thấy trí tuệ, tâm hồn của người nói bởi lời nói luôn mang phong cách riêng của mỗi người. Trong lời nói cần thể hiện tư duy, nếu tư duy tốt lời nói sẽ dễ dàng, gọn gàng, hấp dẫn được người nghe, ngược lại nếu nói ấp úng, không rõ ràng sẽ không thuyết phục được người nghe và đôi khi còn hiểu sai ý mình muốn nói. Vì thể mục đích của giao tiếp sẽ khó được thực hiện hoàn chỉnh. Để có những lời nói đẹp mỗi người phải rèn luyện trong một quá trình lâu dài. Những giờ Tập làm văn chính là giờ học hình thành cho học sinh những kỹ năng nói đầu tiên, ở lứa tuổi này các em đã có một sự thay đổi đáng kể về đặc điểm tâm, sinh lý. Các em đã thay đổi từ trong quá trình nhận thức, việc sử dụng các công cụ trực quan đã giảm bớt so với ở các lớp học trước và thay vào đó là học sinh có thể dùng lời để làm tường minh một vấn đề. Vì vậy, lời nói cho phép diễn đạt dễ dàng hơn rất nhiều những quan hệ phức tạp hơn những tính chất bên trong những sự vận động logi. ở lớp 5 hoạt động yêu thích của trẻ em là sáng tạo văn học, nếu được học văn theo một chương trình đúng và có một phương pháp truyền thụ tốt thì trẻ em ở tuổi này rất thích học văn, dễ nói hết ra những điều mình suy nghĩ, đó là điều kiện thuận lợi nhất cho giáo viên trong việc rèn kỹ năng nói cho từng học sinh, nhận ra những chỗ khiếm khuyết của từng học sinh để uốn nắn kịp thời. Theo quan điểm dạy học hiện nay, cần phải rèn cho học sinh kỹ năng diễn đạt một vấn đề cụ thể một cách rõ ràng, mạch lạc. Vì vậy giờ Tập làm văn còn rèn cho học sinh kỹ năng nói, dạy các em biết tổng hợp kiến thức từ các phân môn khác như: Luyện từ và câu, Tập đọc và các kinh nghiệm cuộc sống mà học sinh có được. Cùng một vấn đề nhưng không phải học sinh nào cũng nói như nhau, do đó giáo viên phải luôn quan tâm tới đặc điểm riêng của từng học sinh để rèn kỹ năng nói cho phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp. 
Thực tế dạy học hiện nay cho thấy kỹ năng nói của học sinh đang ngày bị xem nhẹ và hình thức kiểm tra chủ yếu hiện nay là kiểm tra viết và giáo viên chỉ tập trung vào các kỹ năng: đọc, viết, tính toán trong nhà trường là việc có thật. Việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh trong phân môn Tập làm văn lớp 5 hiện nay chưa làm nổi bật các đặc thù là rèn kỹ năng nói cho học sinh mà chủ yếu mới chỉ tập trung vào lập dàn bài để phục vụ cho giờ văn viết. Do đó, việc rèn luyện kỹ năng nói lưu loát trong cách diễn đạt cho học sinh là việc làm cần thiết của người giáo viên ở trên lớp, đây là cả một quá trình đòi hỏi giáo viên phải nỗ lực, cố gắng, tìm hiểu và quan tâm đến từng đối tượng học sinh ở trong lớp để có thể có biện pháp giúp đỡ các em có điều kiện luyện tập tuỳ theo cách nhìn nhận vấn đề của từng học sinh. Do đó việc cải tiến, đổi mới về phương pháp luyện nói cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 5 nói riêng là vấn đề cần quan tâm, bởi vì khả năng diễn đạt vấn đề của học sinh hiện nay hầu hết còn rất nhiều hạn chế cần khắc phục.
Từ thực trạng việc diễn đạt vấn đề của học sinh lớp 5, trường Tiểu học Thu Cúc 1 hiện nay. Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy, tôi thiết nghĩ cần phải cải tiến và đổi mới về thực trạng hiện nay để nâng cao khả năng diễn đạt, khả năng giao tiếp và nhận biết vấn đề của học sinh. Vì vậy tôi mạnh dạn nghiên cứu sáng kiến “Rèn kỹ năng nói trong giờ Tập làm văn cho học sinh lớp 5”
Phần II:Giải quyết vấn đề
1.Cơ sở lí luận và thực tiễn:
a. Cơ sở lý luận
Bước vào thế kỷ 21 giáo dục Việt Nam đã trải qua 20 năm đổi mới và thu được những thành quả quan trọng về mở rộng quy mô, đa dạng hoá các hình thức giáo dục và nâng cấp cơ sở vật chất cho nhà trường. Chất lượng giáo dục có những chuyển biến rõ rệt.
	Như chúng ta đã biết, Đại hội XI Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2001- 2010 là: “Đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân. Tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá”. Để đạt được mục tiêu trên, giáo dục và khoa học công nghệ có vai trò quyết định, nhu cầu giáo dục phát triển là rất bức thiết.
	Đất nước ta ngày càng phát triển, đổi mới, việc đào tạo một lớp người mới biết sử dụng thành tạo điêu luyện ngôn ngữ diễn đạt một cách mới mẻ sáng tạo của tư duy là vô cùng cần thiết. Cũng bởi Tiếng Việt là ngôn ngữ, là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của xã hội hiện nay. Do vậy Tiếng Việt được đưa vào dạy học trong tất cả các cấp học với lượng kiến thức và thời gian nhiều. Môn Tiếng Việt là một trong những môn học trong trường tiểu học phải được thực hiện theo nguyên tắc dạy và học. Nguyên tắc dạy học Tiếng Việt phải cụ thể hoá mục tiêu và nguyên tắc dạy học nói chung vào từng môn học. Vì thế việc dạy Tiếng Việt cho học sinh tiểu học cần dựa trên cơ sở những quy luật và nguyên tắc để đề ra những phương pháp dạy học cũng như cách tổ chức quá trình dạy học cụ thể hơn, khoa học hơn. Khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nề nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến, hiện đại vào quá trình dạy học. Do vậy rèn luyện kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh của mỗi giáo viên tiểu học cần phải được chú trọng và quan tâm.
	b. Cơ sở thực tiễn:
	Trong tất cả các môn thì Tiếng Việt là một trong những môn học có vị trí đặc biệt, nó chiếm thời lượng tiết học nhiều hơn cả. Sau khi học xong chương trình Tiếng Việt tiểu học các em phải thực hiện tốt 4 kỹ năng nghe, đọc, nói, viết mà chương trình yêu cầu. Đặc biệt là kỹ năng nói thông qua việc diễn đạt các vấn đề một cách rõ ràng, mạch lạc, trọng tâm làm cho người nghe có hứng thú và tiếp cận lời nói một cách tự nhiên và hiệu quả.
	Các yêu cầu của môn Tiếng Việt lớp 5 đối với học sinh vùng thành phố thị xã thì việc thực hiện dễ dàng. Song đối với học sinh lớp 5 trường tiểu học Thu Cúc 1 cần phải thực hiện thường xuyên, nhiệt tình để nâng cao chất lượng học tập tốt hơn.
	ở đơn vị trường Tiểu học Thu Cúc 1, tỷ lệ học sinh đạt chất lượng cao ở môn Tiếng Việt nói chung và khả năng trình bày bằng lời nói của học sinh nhìn chung còn chưa đồng đều ở các khối, lớp.
	Trước yêu cầu thực tế của đơn vị là “Nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo” là giáo viên đang trực tiếp giảng dạy ở lớp 5A trường tiểu học Thu Cúc 1. Xuất phát từ những luận điểm trên và qua thực tế giảng dạy tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu và đổi mới phương pháp để nâng cao chất lượng, rèn kỹ năng nói cho học sinh thông qua môn Tiếng Việt và phân môn Tập làm văn theo tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục Đào tạo, đồng thời tạo ra những phương pháp đổi mới, những biện pháp cần thiết là động lực thúc đẩy cho quá trình giáo dục của nhà trường góp phần hoàn thiện các ký năng để học sinh có thể tiếp cận với các kiến thức mới dễ dàng và có hiệu quả.
2. Giả thuyết:
	- Để thực hiện giải pháp trong việc nâng cao chất lượng kỹ năng trình bày bằng lời nói trong giờ tập làm văn ở lớp 5, bản thân tôi có dự kiến ban đầu về công việc cần làm như sau:
	- Thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục, tuyên truyền vận động để tất cả các phụ huynh đều thấu hiểu về tầm quan trọng của môn Tiếng Việt lớp Năm.
	- Giáo viên nghiên cứu tài liệu, đổi mới nội dung phương pháp dạy học để rèn luyện k ... c em, giúp các em hứng thú trong học tập.
	Phân tích để xác định trọng tâm vấn đề cần quan sát và tiếp thu, hướng dẫn học sinh quan sát bằng nhiều giác quan để tái hiện chân thực sự vật. Quan sát tỉ mỉ nhiều lượt để tìm được những nét riêng, nét tiêu biểu của sự vật và xác định rõ vị trí khởi diểm và trình tự quan sát, xác định rõ trọng tâm mà đề bài yêu cầu để vạch ra hướng quan sát cho học sinh. Khi đã có đầy đủ những chi tiết, những điều cần nói về đề tài giúp cho các em lập dàn ý, sắp xếp các ý quan sát được cho hợp lo-gíc. Trong tiết tập làm văn này giáo viên cần rèn cho học sinh tập nói theo các ý đã sắp xếp và học sinh không thể nói nếu không chuẩn bị kỹ nội dung nói, do đó việc giúp học sinh xây dựng nội dung nói là điều kiện đầu tiên để giờ tập làm văn thành công.
	Biết tạo nhu cầu nói cho học sinh để học sinh có nhu cầu nói thì đề tài phải có vốn sống, vốn hiểu biết của các em đánh thức ở các em những gì các em đang có. Trước mỗi giờ học giáo viên phải tạo bầu không khí hào hứng, cách nêu vấn đề phải hấp dẫn để lôi cuốn học sinh vào học tập.
	Biết tạo hoàn cảnh nói tốt, ngoài việc tránh sự tác động ở bên ngoài, giáo viên còn phải biết thiết lập một quy tắc tế nhị trong hội thoại. Khi học nói ngoài việc nghe, giáo viên cũng cần chú ý đến hoạt động chung của cả lớp, chú ý đến tất cả những lời động viên, những ánh mắt nhìn bạn bè với người nói. Đặc biệt giáo viên phải vui vẻ, tuyệt đối không có những lời nói, những cử chí gay gắt đối với học sinh kể cả khi không vừa ý.
	b. Việc làm trong khi học sinh nói:
	Nó khác với đọc ở chỗ khi nói phải có người nghe, phải luôn luôn quan sát người nghe để thuyết phục họ, diễn đạt đúng, đủ, tự nhiên, chân thành để gợi cảm xúc trực tiếp của người nghe.
	Trong khi học sinh nói, giáo viên tổ chức cho các học sinh khác lắng nghe và hạn chế những yếu tố gây nhiễu trong quá trình học sinh nói. Đồng thời giáo viên cũng cần chú ý nghe học sinh nói, biết tiếp sức cho học sinh đúng lúc, các em gặp khó khăn trong việc chọn từ để diễn đạt, phải giúp đỡ kịp thời nếu học sinh nói lan man, ý rời rạc không thể hiện rõ nội dung, giáo viên có thể khéo léo ngắt lời học sinh để các em điều chỉnh bằng cách đặt câu hỏi.
	c. Việc làm sau khi học sinh nói:
	- Mở rộng thêm ý văn bổ sung về cảm xúc cho các em. Nếu học sinh chưa sử dụng các biện pháp nghệ thuật thì giáo viên phải gợi mở để bổ sung ý văn và rèn tư duy ngôn ngữ cho các em.
	Ví dụ: Với bài văn “Tả hình dáng và tính tình của bà em” một học sinh nói: “Bà em có đôi mắt ánh lên vẻ hiền từ và những nếp nhăn đã hằn sâu khuôn mặt phúc hậu của bà, tóc bà bạc trắng”.
	Để mở rộng thêm ý văn, cô giáo có thể hỏi: Đứng nhìn ngắm bà gợi cho em cảm xúc gì? (Lòng xót thương bà vì bà đã vất vả nắng sương nên tóc bà bạc trắng, mắt mờ, lưng còng, em sẽ kính trọng và yêu thương bà để bà lúc nào cũng được vui).
	- Giúp học sinh thấy là mình nói như vậy đã đạt yêu cầu chưa qua sự nhận xét của bạn từ hai góc độ: kỹ năng nói và nội dung nói.
	- Kích thích động viên bằng cách đánh giá cho điểm.
	Giáo viên nhận xét, rút kinh nghiệm giờ học.
	Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm trên, chất lượng của học sinh thông qua các giờ tập làm văn được nâng lên rõ rệt so với khi chưa áp dụng sáng kiến. Vì vậy hiệu quả của sáng kiến được nâng lên rõ rệt, kỹ năng trình bày vấn đề bằng lời nói được nâng lên, trình độ diễn đạt của học sinh được phát triển, khắc phục được tình trạng trình bày vấn đề lúng túng của học sinh. Kết quả cụ thể như sau:
Thời điểm đánh giá
TSHS
HS tham gia khảo sát
Kết quả
Trình bày lưu loát
Trình bày chưa lưu loát
Trình bày còn lúng túng
TS
%
TS
%
TS
%
Đầu năm
24
24
4
16.6
9
37.5
11
45.9
Cuối năm
24
24
9
37.5
10
41.6
5
20.9
So sánh
=
=
+5
+20.9
+1
+4.1
-6
-25
	Qua số liệu khảo sát việc học sinh nói trong giờ tập làm văn lớp 5 như trên, so sánh với thống kê khảo sát đầu năm ta thấy tỉ lệ học sinh biết trình bày vấn đề một cách lưu loát tăng 5 em = 20.9%; số học sinh đọc trình bày vấn đề còn lúng túng giảm 6 em = 25%. 
	Kết quả khảo sát trên đã được các tổ chuyên môn đánh giá là có thể áp dụng rộng rãi cho mọi đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh lớp 5 ở địa bàn miền núi như học sinh trường Tiểu học Thu Cúc 1.
Phần III: Bài học kinh nghiệm
1. Kinh nghiệm cụ thể:
Để giờ học đạt kết quả tốt thì những việc làm trước khi nói, trong khi nói và sau khi nói phải được tiến hành thường xuyên đối với từng giai đoạn, từng học sinh. Giáo viên phải chuẩn bị tốt về mặt nội dung cũng như yêu cầu của bài, dự kiến những khả năng có thể xảy ra trong giờ học, chỉ rõ mức độ cần đạt của giờ học để từ đó lựa chọn phương pháp cho phù hợp.
	Muốn học sinh có kỹ năng nói tốt cần rèn luyện cho các em cách nói, cách diễn đạt trực tiếp không chỉ trong giờ tập làm văn mà còn ở tất cả các giờ học khác để thành lập thói quen nói tự tin, nói có văn hoá cho học sinh vì giờ tập làm văn là giờ học tổng hợp kiến thức của nhiều phân môn nên cần có sự hỗ trợ của các phân môn khác trong việc rèn kỹ năng nói.
	Khi đặt câu hỏi cho học sinh cần đặt lưu ý đến khả năng từ lời nói của các em vì nếu câu hỏi khá dài rộng sẽ không tổng hợp được kiến thức của học sinh và còn làm giảm khả năng nói của các em. Khi tổ chức cho học sinh nói, giáo viên nên nhập vai cùng các em, đi cùng với những cảm xúc của các em để các em nói ra cảm xúc của mình. Nghĩa là lúc này giáo viên phải vừa là “đạo diễn”vừa là “diễn viên”, có như vậy mới thu hút được các em vào giờ học và gây hứng thú để các em nói.
Trong quá trình học sinh nói giáo viên chú ý cho học sinh trong việc diễn đạt câu đúng , đủ, rõ ý bằng lời văn tự nhiên chân thành và giản dị chưa đòi hỏi sự “Chau chuốt” bóng bẩy về lời. Do vậy có thể chấp nhận học sinh dùng nhiều từ ngữ thông dụng có phần “nôm na” chưa thật hay nhưng diễn đạt được ý muốn nói của các em học sinh, có thể dùng nhiều câu ngắn gọn 
hoặc câu dài kết hợp với ngữ điệu hay cử chỉ, điệu bộ nét mặt để làm tăng sức gợi cảm của câu nói.
	Ngoài ra giáo viên cần quan tâm đến cách trình bày mạch lạc giữa các ý để nhằm tạo sự thuyết phục đối với ngôn ngữ, giọng nói phải phù hợp với nội dung diễn tả, thái độ thoải mái tự nhiên.
	Tóm lại, cái khó khăn của việc dạy tập làm văn miệng là giáo viên phải giúp học sinh chọn từ ngữ, văn bản nghĩa là học sinh phải thực sự làm việc sáng tạo. Vì vậy, để học sinh tạo lập được văn bản nói, giáo viên cần phải tạo được không khí hào hứng, kích thích học sinh muốn nói và mạnh dạn, từ đó hướng dẫn các em nói sao cho đạt kết quả tốt nhất.
	2. Sử dụng sáng kiến kinh nghiệm:
	Việc sử dụng sáng kiến kinh nghiệm có thể đạt hiệu quả cao trong giờ tập làm văn thì người giáo viên phải nắm được quy trình, công việc chuẩn bị của giáo viên cũng cần phải chu đáo, sử dụng lời nói mẫu mực, uốn nắn kịp thời và có cách điều chỉnh phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 5 để các em có kỹ năng trình bày vấn đề một cách lưu loát, mạch lạc để người nghe có thể hiểu và tiếp nhận nội dung trình bày một cách tự nhiên và hiệu quả.
	3. Đề xuất hướng phát triển sáng kiến kinh nghiệm:
	Để sáng kiến kinh nghiệm này có thể áp dụng rộng rãi nhằm nâng cao kỹ năng nói cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh tiểu học ở vùng miền núi nói riêng cần có sự cố gắng trong quá trình giảng dạy, đầu tư về trang thiết bị dạy học, có cách tổ chức hoạt động cho học sinh cụ thể để có thể động viên khuyến khích học sinh bộc lộ được những điều mình suy nghĩ của mình qua lời nói.
	4. Kết luận và kiến nghị:
a. Kết luận:
	Trong sự nghiệp đổi mới “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá” Mục tiêu giáo dục là thực hiện giáo dục toàn diện : Đức- Trí – Thể – Mỹ cho học sinh. Chúng ta thực hiện chương trình thay sách đó là chiến dịch lớn của ngành giáo dục. Trong đó môn Tiếng Việt có vị trí hết sức quan trọng trong việc phát triển tư duy, sáng tạo cho học sinh, giúp cho các em học tốt các môn học khác.
	Nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và môn Tập làm văn lớp 5 nói riêng góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh.
	Kinh nghiệm này không chỉ có tác dụng đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy mà nó giúp phụ huynh học sinh có cách nhìn đúng đắn hơn về phần dạy Tiếng Việt cho học sinh con em mình .
	Trong quá trình học tập đòi hỏi mỗi người phải biết tự học tự tìm tòi sáng tạo trong thực tế. Đó là cả một quá trình phấn đấu không ngừng của thấy và trò trong nhà trường tiểu học. Nhất là đối với học sinh lớp 5 khi luyện nói qua các tiết học Tập làm văn. Là người đặt nền móng cho sự nghiệp giáo dục, đòi hỏi người giáo viên phải thực sự có tâm huyết với nghề nghiệp, có đầu óc suy luận khoa học, sáng tạo mềm dẻo trong việc vận dụng các phương pháp dạy học, thích hợp với đặc điểm tâm sinh lý và điều kiện của học sinh lớp mình dạy.
	b. Kiến nghị:
	- Để đạt được kết quả trong việc nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt lớp 5 chương trình tiểu học mới tôi mong rằng tất cả giáo viên cần nghiên cứu tìm ra phương pháp giảng dạy hay, đầu tư nghiên cứu để rèn luyện các em có đủ đức, đủ tài giúp ích nước nhà sau này.
	- Mong các bậc phụ huynh học sinh cần trang bị cho con em mình đầy đủ đồ dùng học tập nhằm bổ sung vốn kiến thức, đôn đốc học sinh chăm chỉ học bài.
	- Học sinh cần chăm chỉ chịu khó tìm hiểu trau dồi những kiến thức qua sách, vở, báo, chuyện  tự tìm tòi học hỏi, tự phát hiện những kiến thức cho bản thân.
	Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm mà tôi đã nghiên cứu và thực nghiệm có hiệu quả trong quá trình giảng dạy phân môn Tập làm văn lớp 5. Rất mong được sự đóng góp của các bạn đồng nghiệp và các cấp quản lý để sáng kiến cảu tôi có thể áp dụng rộng rãi trong các trường Tiểu học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đối với học sinh Tiểu học.
Thu Cúc, ngày tháng 10 năm 2008
Người thực hiện
Nguyễn Thị Nhàn
Tài liệu tham khảo
	1. PGS.TS. Đỗ Đình Hoan – Một số vấn đề cơ bản cảu chương trình Tiểu học mới. NXB: Giáo dục ; 2002.
	2. Nguyễn Minh Thuyết – Hỏi, đáp về dạy học Tiếng Việt 5. NXB: Giáo dục; 2006.
	3. Trần Hoàng Tuý - Để dạy tốt các môn học lớp 5. NXB: Giáo dục; 2006.
	4. TS . Lê Anh Xuân – Rèn kỹ năng tập làm văn cho hcoj sinh lớp 5 theo chương trình Tiểu học mới – NXB: Giáo dục; 2007.
	5. Nguyễn Minh Thuyết – Tiếng Việt 5 (Sách giáo viên)/ Tập 1-2. NXB: Giáo dục; 2006.
	6. Nguyễn Minh Thuyết – Tiếng Việt 5 (Sách giáo khoa)/ Tập 1-2. NXB: Giáo dục; 2006.

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN Luyen noi trong gio TLV 5.doc