VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO NHÓM TRONG GIẢNG DẠY THEO HƯỚNG CHUYÊN SÂU
I.ĐẶT VẤN ĐỀ:
Phương pháp dạy học theo nhóm là một trong những phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh.Việc sử dụng phương pháp theo nhóm trong giảng dạy đối với giáo viên không phải là mới vì ngay từ khi việc đổi mới chương trình triển khai thì song song đó giáo viên cũng được tập huấn những phương pháp dạy học theo hường phát huy tính tích cực của học sinh trong đó có phương pháp dạy học theo nhóm và giáo viên cũng đã vận dụng trong công tác giảng dạy.Tuy nhiên vận dụng phương pháp dạy học theo nhóm như thế nào để mang lại hiệu quả cao nhất? Đó chính là điều tôi muốn chia sẻ, trao đổi và học tập kinh nghiệm từ các đồng nghiệp.
II.NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN KHI VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO NHÓM TRONG GIẢNG DẠY:
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẬN TÂN PHÚ TRƯỜNG TIỂU HỌC TÂN SƠN NHÌ ĐỀ TÀI: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO NHÓM TRONG GIẢNG DẠY THEO HƯỚNG CHUYÊN SÂU NGƯỜI THỰC HIỆN: HUỲNH THỊ LUYỆN ĐƠN VỊ: TRƯỜNG TH TÂN SƠN NHÌ NĂM HỌC: 2007-2008 DÀN Ý 1.ĐẶT VẤN ĐỀ. 2.NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN KHI VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO NHÓM TRONG GIẢNG DẠY THEO NHÓM TRONG GIẢNG DẠY THEO HƯỚNG CHUYÊN SÂU. 3.NỘI DUNG NHỮNG BIỆN PHÁP. 4.PHẠM VI ÁP DỤNG VÀ KẾT QUẢ. 5.KẾT LUẬN. ĐỀ TÀI: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO NHÓM TRONG GIẢNG DẠY THEO HƯỚNG CHUYÊN SÂU I.ĐẶT VẤN ĐỀ: Phương pháp dạy học theo nhóm là một trong những phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh.Việc sử dụng phương pháp theo nhóm trong giảng dạy đối với giáo viên không phải là mới vì ngay từ khi việc đổi mới chương trình triển khai thì song song đó giáo viên cũng được tập huấn những phương pháp dạy học theo hường phát huy tính tích cực của học sinh trong đó có phương pháp dạy học theo nhóm và giáo viên cũng đã vận dụng trong công tác giảng dạy.Tuy nhiên vận dụng phương pháp dạy học theo nhóm như thế nào để mang lại hiệu quả cao nhất? Đó chính là điều tôi muốn chia sẻ, trao đổi và học tập kinh nghiệm từ các đồng nghiệp. II.NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN KHI VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO NHÓM TRONG GIẢNG DẠY: 1.THUẬN LỢI: -Bản thân giáo viên được tham dự nhiều lớp tập huấn phương pháp dạy học theo hướng tích cực dành cho giáo viên cốt cán.Do vậy giáo viên nắm vững cách thức sử dụng, nội dung và giá trỉ của từng phương pháp. -Đối tượng học sinh là học sinh lóp 4 do vậy các em đã tương đối chủ động hơn trong học tập và khi hướng dẫn cách thực hiện các em nắm bắt nhanh. -Giảng dạy theo hướng khoán chương trình giúp giáo viên chủ động lựa chọn nội dung, đề ra mục tiêu.Từ mục tiêu giáo viên lựa chọn phương pháp phù hợp. -Giảng dạy theo hướng chuyên sâu giúp giáo viên rút kinh nghiệm và điều chỉnh kịp thời những vấn đề phát sing khi sử dụng những phương pháp dạy học theo nhóm. 2.KHÓ KHĂN: Giáo viên phải biết chọn lựa những phương pháp sao cho phù hợp với dạng bài tập, nội dung của bài. III.NỘI DUNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN: 1.Trong quá trình vận dụng tôi nhận thấy mỗi phương pháp phù hợp với một dạng bài tập, một kiểu bài. Ví dụ: a.Phương pháp lắp ghép tôi sử dụng nhiều trong phân môn Luyện từ và câu với kiểu bài Mở rộng vốn từ Khi dạy bài mở rộng vốn từ với dạng bài tập tìm từ, ở học kì I tôi tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm đôi, tôi nhận thấy học sinh thực hiện tốt nhưng số lượng từ không nhiều. Bài Mở rộng vốn từ Cái đẹp, bài tập 1 yêu cầu học sinh tìm từ +Thể hiện vẻ đẹp bên ngoài của con người +Thể hiện nét đẹp tâm hồn, tính cách của con người. Ở học kì II tôi sử dụng phương pháp nhóm lắp ghép để học sinh giải quyết yêu cầu của bài tập như sau: -Đầu tiên tôi giao việc cho học sinh thực hiện cá nhân, mỗi học sinh thực hiện một yêu cầu.Ở bước này học sinh tự tìm từ, số lượng từ học sinh tìm được có thể ít hay nhiều. -Kế đến học sinh sẽ họp nhóm chuyên môn.Lúc này những học sinh thực hiện cùng một yêu cầu sẽ bổ sung từ cho nhau.Sau bước này số lượng từ học sinh tìm được sẽ nhiều hơn. -Tiếp theo các em sẽ lắp ghép, học sinh thực hiện yêu cầu a trình bày từ mình tìm được cho học sinh thực hiện yêu cầu b và ngược lại.Sau bước này, học sinh hoàn thành bài tập với số lượng từ tìm được rất phong phú. Với cách thực hiện như trên, tôi nhận thấy số lượng từ học sinh tìm được nhiều hơn, vốn từ của học sinh ngày càng phong phú hơn.Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, học sinh tích sực làm việc để có từ trao đổi với bạn và để nhận được lời khen từ bạn khi mình tìm được nhiều từ nên các em tích cực chuẩn bị bài trước ở nhà. b.Phương pháp làm dấu-trích đoạn và phương pháp đôi bạn học tập tôi sử dụng trong môn Tập làm văn khi dạy loại bài Lí thuyết hoặc Luyện tập-Thực hành. Khi dạy bài Luyện tập quan sát con vật, bài tập 1 yêu cầu học sinh đọc bài văn Đàn ngan mới nở và cho biết tác giả đã quan sát những bộ phận nào của con vật; ghi lại những câu văn miêu tả em cho là hay. Ở học kì I với loại bài này, tôi tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân sau đó học sinh trình bày ý kiến rồi học sinh khác nhận xét, bổ sung.Tôi nhận thấy học sinh thực hiện tốt các yêu cầu của bài tập nhưng lớp học không sinh động.Một số học sinh khi giáo viên yêu cầu trình bày hoặc nhận xét các em không nói được vì các em không lắng nghe hoặc không có kết quả của riêng mình. Để giải quyết bài tập trên, ở học kì II tôi vận dụng phương pháp làm dấu trích đoạn kết hợp với phương pháp dôi bạn học tập.Tôi nhận thấy học sinh không chỉ giải quyết tốt yêu cầu của bài tập mà thông qua việc làm dấu trích đoạn học sinh dễ dàng nhận ra những đặc diểm nổi bật của con ngan con.Tác giả tả con ngan con không theo một trình tự thông thường từ trên xuống dưới mà tác giả chọn tả những đặc điểm đặc sắc nhất của con ngan con là bộ lông sau đó đến đôi mắt, cái mỏ rồi mới đến cái đầu mà giáo viên không cần giảng dạy chính học sinh tự phát hiện và trình bày điều đó.Bên cạnh đó, phương pháp đôi bạn học tập giúp học sinh tự kiểm tra kết quả làm việc của mình, đồng thời các em mạnh dạn bày tỏ ý kiến, cảm nhận của mình về cái hay cái đẹp của những câu văn miêu tả. Trước đây, khi sửa bài tôi phải đặt câu hỏi gợi ý cho học sinh nhận xét rồi học sinh cùng nhau sửa bài.Như vậy số lượng lỗi được sửa ít và chỉ có một số học sinh làm việc mà thôi. Sau này, khi sử dụng phương pháp nói chuyện tay ba để sửa bài tôi nhận thấy tất cả học sinh đều có thể chia sẻ bài làm của mình với bạn và được bạn giúp để sửa bài hoặc bạn nhận xét, góp ý thêm cho bài làm của mình.Ngoài ra, học sinh còn được học tập những cái hay từ bài của bạn và trong một nhóm nhỏ như vậy học sinh nhút nhát cũng mạnh dạn bày tỏ ý kiến của mình. 2. Khi vận dụng những phương pháp nhóm vào trong thực tế giảng dạy tôi nhận thấy phải vận dụng linh hoạt sao cho phù hợp với đối tượng. Với học sinh tiểu học, tôi sử dụng phương pháp nhóm lắp ghép khi bài tập có 2 câu và độ khó tương đương nhau.Sau khi thực hiện cá nhân, học sinh tạo nhóm lắp ghép như sau: Nhóm chuyên môn: DÃY 1 DÃY 2 DÃY 3 DÃY 4 A A B B A A B B A A B B A A B B Nhóm lắp ghép: DÃY 1 DÃY 2 DÃY 3 DÃY 4 A B A B A B A B A B A B A B A B Khi thực hiện như thế học sinh dễ dàng trao đổi nhóm chuyên môn và khi lắp ghép học sinh di chuyển nhanh hơn, không làm mất nhiều thời gian.Với cách làn như thế còn phù hợp với cách sắp xếp bàn ghế trong lớp học. 3. Đặc điểm của học sinh tiểu học là thích mới lạ do vậy khi sử dụng phương pháp nhóm tôi thường xuyên thay đổi các thành viên trong nhóm bằng các hình thức chia nhóm như chia nhóm theo từ đồng nghĩa, chia nhóm theo từ ngữ cùng chủ đềNgoài ra, để các hoạt động nhóm có hiệu quả tôi còn chia nhóm theo khả năng theo sở thích. Ví dụ: Bài Thành phố Hồ Chí Minh (môn Địa lí) Hoạt động 2: Giáo viên yêu cầu học sinh tìm hiểu thông tin trong SGK và những hiểu biết của mình để chứng tỏ Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm kimh tế, văn hóa, khoa học lớn. Để thực hiện yêu cầu trên, giáo viên chia lớp thành các nhóm nhỏ có cùng sở thích về kinh tế, về văn hóa, về khoa học.Mỗi nhóm sẽ giải quyết một nội dung sau đó các nhóm sẽ bổ sung cho nhau.Như thế kết quả làm việc của các em có chiều sâu và nội dung được mở rộng hơn. 4. Tùy theo đặc điểm học sinh của từng lớp, khi sử dụng phương pháp dạy học theo nhóm tôi chọn hình thức tổ chức, cách thức làm việc khác nhau cho cùng một phương pháp. Ví dụ: Khi dạy bài Vị ngữ trong câu kể Ai thế nào? Ở hoạt động 1 học sinh phải thực hiện các yêu cấu sau: a. Đọc đoạn văn. b.Tìm câu kể Ai thế nào ? trong đoạn văn. c.Xác định chủ ngữ, vị ngữ của những câu vừa tìm được. Để thực hiện yêu cầu b và c tôi sử dụng phương pháp đôi bạn học tập cho cả 3 lớp tôi phụ trách Nhưng với lớp 4/1 sau khi sử dụng phương pháp đôi bạn học tập tôi yêu cầu học sinh trình bày những vấn đề chưa có sự thống nhất.Từ đó, giáo viên cùng học sinh đặt câu hỏi để làm sáng tỏ và mở rộng vấn đề. Vì đặc điểm của học sinh lóp này vô cùng năng động, các em tiếp thu nhanh, kĩ năng đặt câu hỏi tốt. Với 2 lớp còn lại sau khi các em thực hiện câu b xong giáo viên cùng học sinh nhận xét, sửa chữa rối sau đó tiến hành thực hiện tiếp câu c. Vì 2 lớp này có nhiều học sinh khả năng tiếp thu chậm, các em còn thụ động, ít bày tỏ ý kiến. Khi sử dụng các phương pháp dạy học theo nhóm, tôi còn hướng dẫn học sinh nhận xét ý kiến của bạn theo tinh thần của lớp học Intel.Điều đó, giúp học sinh mạnh dạn, tự tin khi bày tỏ ý kiến của mình và là một trong những động lực giúp học sinh cố gắng vươn lên trong học tập. Tóm lại: Ngoài những kinh nghiệm như trình bày ở trên, khi vận dụng giáo viên cần nghiên cứu, lựa chọn và phối hợp nhịp nhàng với các phương pháp khác sao cho phát huy được khả năng học tập cao nhất của học sinh và giờ học nhẹ nhàng nhưng hiệu quả để mỗi ngày học sinh đến trường là một ngày vui. IV.PHẠM VI ÁP DỤNG VÀ KẾT QUẢ -Phương pháp dạy học theo nhóm vận dụng được ở tất cả các phân môn.Tuy nhiên tùy đặc điểm của từng phân môn và nội dung của từng bài học mà khi vận dụng giáo viên linh hoạt thay đổi sao cho phù hợp. -Kết quả: Bảng thống kê kết quả học tập môn Tiếng Việt lớp 4/1 năm học 2007-2008 GIỮA KÌ I GIỮA KÌ II GIỎI KHÁ TB YẾU GIỎI KHÁ TB YẾU 18 21 3 / 26 16 / / Bảng thống kê kết quả học tập môn Tiếng Việt khối 4 năm học 2007-2008 GIỮA KÌ I GIỮA KÌ II GIỎI KHÁ TB YẾU GIỎI KHÁ TB YẾU 28 59 24 15 62 53 8 / Dựa vào bảng thống kê cho thấy số học sinh đạt loại Giỏi môn Tiếng Việt giữa kì II của lớp 4/1 và của khối tăng so với giữa kì I.Số học sinh học sinh trung bình môn Tiếng Việt của lớp 4/1 giữa kì II không có.Giữa học kì II số lượng học sinh trung bình của khối giảm 2 lần so với giữa kì I và không có học sinh yếu. Ngoài ra, lớp 4/1 đa số học sinh trong lớp có kĩ năng nghe, nói, nhận xét, hợp tác rất tốt.Trong đợt tập huấn phương pháp dạy học tích cực lớp 5 vừa qua, giáo viên các trường minh họa các hoạt động học tập thông qua học sinh lớp 4/1 đều có chung nhận xét là học sinh năng động, tự tin, mạnh dạn và học tốt. Trong buổi họp khối vừa qua, khi trao đổi về tình hình học tập của học sinh,giáo viên trong khối nhận xét có nhiều học sinh tiến bộ rõ rệt như năng động hơn, mạnh dạn hơn, kết quả kiểm tra GKII môn Tập làm văn tốt hơn như Chinh Chiến, Đức Đạt, Ái Vân(lớp 4/2), Trúc, Vịnh, Quỳnh Như, Châu(lớp 4/3). Đầu năm khi BGH dự giờ thăm lớp có nhận xét trong tiết dạy giáo viên phải làm việc nhiều, học sinh còn thụ động chưa tích cực.Bản thân giáo viên sau 5 tiết dạy rất mệt.Sau khi vận dụng các phương pháp dạy học theo nhóm kết quả thanh tra chuyên môn vừa qua đạt tiết dạy tốt(2 tiết).Thanh tra đã nhận xét như sau “Giáo viên và học sinh có sự phối hợp nhịp nhàng, sử dụng những phương pháp phù hợp với bộ môn, học sinh mạnh dạn phát biểu, nhận xét”.Đó chính là kết quả tôi đạt được sau khi nghiên cứu, vận dụng những phương pháp dạy học theo nhóm vào trong công tác giảng dạy của mình. V.KẾT LUẬN: “Đổi mới phương pháp giảng dạy là con đường tất yếu đưa nền giáo dục Việt Nam lên một tầm cao mới trong việc hội nhập với thế giới”(Trích trong tài liệu Đổi mới phương pháp giảng dạy của thầy Hoàng Trí).Và đó cũng là trách nhiệm của mỗi giáo viên chúng ta để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Đó là những kinh nghiệm riêng của bản thân tôi.Nó giúp tôi khắc phục được những hạn chế trong công tác giảng dạy của mình.Tuy nhiên đó là những kinh nghiệm chủ quan của bản thân.Do vậy rất mong nhận được những ý kiến phản hồi từ đồng nghiệp để tôi học tập, rút kinh nghiệm để vận dụng tốt hơn nữa các phương pháp dạy học theo nhóm. Tân Phú, ngày 01 tháng 04 năm 2008 Người viết Huỳnh Thị Luyện
Tài liệu đính kèm: