Ngay buổi chiều hôm ấy, sau khi bản Yêu sách được gửi đi, anh Nguyễn rời khỏi nhà số 6
đường Vi-la đê Gô-bơ-lanh, nơi anh vẫn ở với luật sư Phan Văn Trường. Anh sống bí mật, đề
phòng sự truy lùng ráo riết của bọn mật thám Bộ Thuộc địa Pháp.
*
* *
Vào buổi sáng sớm có người đến bấm chuông căn nhà số 6, phố Đô-bi-nhi. Đây là nhà của
Giuyn Căm-bông, đại sứ cũ của Pháp ở Đức, hiện là thành viên của đoàn đại biểu Pháp đi dự
Hội nghị Véc-xây. Giơ-nơ-vi-e-vơ Ta-bu-i, cô cháu gái trẻ của Căm-bông ra mở cửa. Sau này cô
là một nhà báo nổi tiếng, nhưng lúc bấy giờ cô là thư ký của cậu cô. Người bấm chuông là một
thanh niên châu Á, mảnh khảnh, có khuôn mặt cởi mở, dễ mến, đôi mắt to, sáng long lanh. Anh
lịch sự chào cô và nói bằng thứ tiếng Pháp không sõi:
- Tôi muốn trao cho ngài đại sứ Căm-bông một văn kiện.
Giơ-nơ-vi-e-vơ mời khách đến sớm vào nhà rồi ra hiệu cho khách ngồi xuống cạnh chiếc
bàn dài chạm trổ theo kiểu đế chế. Chiếc bàn này hiện nay vẫn kê trong phòng khách gia đình
Ta-bu-i. Cô gái hỏi người thanh niên là ai?
- Thưa cô, tôi là Nguyễn Ái Quốc, tôi muốn gặp ngài Căm-bông.
Chàng thanh niên lấy ra một cuốn giấy buộc bằng dây mảnh. Anh mở ra và trao cho cô gái.
- Tôi đến đây để trao cho ngài đại sứ "bản trần tình” của nhân dân Đông Dương.
Có thể thấy ngay là những tờ giấy trong cuộn giấy viết bằng một thứ chữ rất đẹp. Tờ đầu
tiên là bức thư gửi cho chủ nhà:
Thưa ngài đại sứ Căm-bông, đại diện toàn quyền của nước Pháp tại Hội nghị Véc-xây. Tôi
là người đại điện cho nhân dân Đông Dương. Chúng tôi là một dân tộc chậm phát triển, chúng
tôi đã được biết thế nào là nền văn minh của nước Ngài.".
Tài liệu sinh hoạt “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác” 1 117 Chuyện kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ******* Chuyện thứ 1: Bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị Véc-xây. Tháng 6 năm 1919, nghe tin các đoàn đại biểu mười mấy nước Đồng minh chiến thắng họp ở Véc-xây cách thủ đô Pa-ri 14 ki-lô-mét, Nguyễn Tất Thành bàn với nhà yêu nước Phan Châu Trinh và luật sư, tiến sĩ Phan Văn Trường viết bản "Yêu sách của nhân dân An Nam" gửi Hội nghị Véc-xây. Nhà yêu nước họ Phan trịnh trọng nói: - Bảy điều yêu sách mà anh Thành nêu ra, theo tôi thật là xác đáng và đúng như bọn mình thường trao đổi với nhau. Chú Trường xem có nên thêm điều gì không? - Tôi thấy thế là tốt... Thử xem còn vấn đề gì về quyền của nhân dân ta cần đòi... - Văn Trường nói và gõ nhẹ vào trán mình theo thói quen của ông khi cần suy tính một điều gì. - Thưa hai bác - Tất Thành lên tiếng - Hôm trước cháu phác thảo ra 7 điều yêu sách đưa hai bác xem, nhưng đêm hôm qua cháu mới nảy thêm một ý. Cháu thấy rằng ở Đông Dương, bọn quan lại chỉ dựa vào các sắc lệnh của tên toàn quyền để cai trị dân ta mà không hề có luật. Cháu muốn đưa thêm một điều yêu sách nữa: "Thay thế chế độ sắc lệnh bằng chế độ luật pháp". - Đúng! Đúng! Luật sư họ Phan sôi nổi hưởng ứng. Muốn cho dân ta có tự do thì phải đòi họ cai trị theo luật pháp! - Tôi cũng tán đồng! Phan Châu Trinh nói như kết luận buổi gặp mặt. Bây giờ ta làm thế nào để chuyển bản Yêu sách tới Hội nghị Véc-xây đây? Tất Thành: - Thưa bác, cháu nghĩ rằng phải nhờ bác Phan Văn Trường viết ngay ra bằng tiếng Pháp thì mới kịp. Hai ngày sau, Nguyễn Tất Thành đã ngồi bên luật sư Phan Văn Trường, trước bản "Yêu sách của nhân dân Việt Nam" vừa thảo xong bằng chữ Pháp. - Chúng ta sẽ đứng tên dưới bản yêu sách này như thế nào đây? Bác đứng tên nhé. Nguyễn Tất Thành nêu ý kiến. - Không! Phan Văn Trường đáp - bản Yêu sách này tuy là tôi chấp bút viết ra bằng tiếng Pháp. Nhưng tôi phải viết chỉ vì anh chưa thông thạo Pháp văn mà thôi, chứ sáng kiến lớn lao này của anh, và hầu hết ý kiến nêu ra trong bản Yêu sách cũng là của anh. - Thưa bác, sáng kiến của cháu cũng chỉ là phản ánh nguyện vọng chung của những người yêu nước chứ có phải của riêng cháu đâu. Bác là một nhân vật có danh tiếng, bà con Việt kiều trên đất Pháp đều biết bác là một luật sư yêu nước dám bênh vực công lý, che chở cho bà con. Bác đứng tên cho bản yêu sách này thì giá trị của nó càng cao, ảnh hưởng của nó càng rộng. - Không! Không thể được! Tôi tuy có chút danh vọng hơn anh ngày nay, nhưng cái tâm, cái chí của anh còn lớn hơn tôi nhiều. Vả lại về nguyên tắc, người trí thức không được phép lấy công người khác làm công của mình: "Cái gì của Xê-da thì phải trả lại cho Xê-da". Đó mới là lẽ phải. Chẳng những tôi không thể đứng tên, mà bác Hy Mã Phan Châu trinh cũng không nên đứng tên. Cuộc trao đổi giữa hai nhà yêu nước đi tới kết luận: dùng một cái tên gì tiêu biểu cho nguyện vọng chung của nhân dân, nhưng phải là tên một cá nhân thì tính chất pháp nhân của văn Tài liệu sinh hoạt “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác” 2 bản mới có giá trị. Cuối cùng anh Nguyễn quyết định tự mình đứng mũi chịu sào với cái tên chung cho tấm lòng của mọi người. Anh ký: Thay mặt những người yêu nước Việt Nam Nguyễn Ái Quốc Ngay buổi chiều hôm ấy, sau khi bản Yêu sách được gửi đi, anh Nguyễn rời khỏi nhà số 6 đường Vi-la đê Gô-bơ-lanh, nơi anh vẫn ở với luật sư Phan Văn Trường. Anh sống bí mật, đề phòng sự truy lùng ráo riết của bọn mật thám Bộ Thuộc địa Pháp. * * * Vào buổi sáng sớm có người đến bấm chuông căn nhà số 6, phố Đô-bi-nhi. Đây là nhà của Giuyn Căm-bông, đại sứ cũ của Pháp ở Đức, hiện là thành viên của đoàn đại biểu Pháp đi dự Hội nghị Véc-xây. Giơ-nơ-vi-e-vơ Ta-bu-i, cô cháu gái trẻ của Căm-bông ra mở cửa. Sau này cô là một nhà báo nổi tiếng, nhưng lúc bấy giờ cô là thư ký của cậu cô. Người bấm chuông là một thanh niên châu Á, mảnh khảnh, có khuôn mặt cởi mở, dễ mến, đôi mắt to, sáng long lanh. Anh lịch sự chào cô và nói bằng thứ tiếng Pháp không sõi: - Tôi muốn trao cho ngài đại sứ Căm-bông một văn kiện. Giơ-nơ-vi-e-vơ mời khách đến sớm vào nhà rồi ra hiệu cho khách ngồi xuống cạnh chiếc bàn dài chạm trổ theo kiểu đế chế. Chiếc bàn này hiện nay vẫn kê trong phòng khách gia đình Ta-bu-i. Cô gái hỏi người thanh niên là ai? - Thưa cô, tôi là Nguyễn Ái Quốc, tôi muốn gặp ngài Căm-bông. Chàng thanh niên lấy ra một cuốn giấy buộc bằng dây mảnh. Anh mở ra và trao cho cô gái. - Tôi đến đây để trao cho ngài đại sứ "bản trần tình” của nhân dân Đông Dương. Có thể thấy ngay là những tờ giấy trong cuộn giấy viết bằng một thứ chữ rất đẹp. Tờ đầu tiên là bức thư gửi cho chủ nhà: Thưa ngài đại sứ Căm-bông, đại diện toàn quyền của nước Pháp tại Hội nghị Véc-xây. Tôi là người đại điện cho nhân dân Đông Dương. Chúng tôi là một dân tộc chậm phát triển, chúng tôi đã được biết thế nào là nền văn minh của nước Ngài...". Tài liệu mà người thanh niên châu Á mang đến có tên là “Bản Yêu sách của nhân dân An Nam ". Bản Yêu sách viết: "Trong khi chờ đợi nguyên tắc dân tộc sẽ từ lĩnh vực lý tưởng chuyển vào lĩnh vực hiện thực do chỗ quyền tự quyết thiêng liêng của các dân tộc được thừa nhận thực sự, nhân dân nước An Nam trước kia, nay là xứ Đông - Pháp, xin trình bày với các quý Chính phủ Đồng minh nói chung và với Chính phủ Pháp đáng kính nói riêng những yêu sách khiêm tốn sau đây: 1- Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị. 2- Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo bề mặt pháp luật như người Âu châu; xoá bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam; 3- Tự do báo chí và tự do ngôn luận; 4- Tự do lập hội và hội họp; 5- Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương; Tài liệu sinh hoạt “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác” 3 6- Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ; 7- Thay thế chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật; 8- Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra, tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ. Vài ngày sau, các đoàn đại biểu khác tham gia Hội nghị và nhiều nghị sĩ Pháp cũng nhận được bản yêu sách tương tự như vậy. Kèm theo bản yêu sách có bức thư ngắn: "Thưa ngài! Nhân dịp chiến thắng của Đồng minh, chúng tôi xin mạn phép gửi đến Ngài kèm theo đây bản ghi những yêu sách của nhân dân An Nam. Tin tưởng ở sự độ lượng cao cả của Ngài, chúng tôi mong Ngài ủng hộ bản yêu sách này trước những người có thẩm quyền. Thay mặt nhóm những người An Nam yêu nước: Nguyễn ái Quốc". Người ta nhiều lần bắt gặp người thanh niên Việt Nam kiên trì này với tập giấy tờ cặp dưới nách tại các hành lang ồn ào, mù mịt khói thuốc của các ban biên tập báo ở Pa-ri, trong các gian phòng chật chội do các công đoàn và đảng Xã hội thuê để tổ chức các cuộc họp và mít tinh. Lu-i Ác-nu, Trưởng ban Đông Dương của Sở Mật thám Pháp, sau này là Chánh Mật thám Pháp ở Đông Dương, nhún vai khi nghe báo cáo về hành động của một người nào đó tên là Nguyễn Ái Quốc và về nội dung một "tài liệu chống Pháp" đang được người đó phân phát khắp nơi. Do nghề nghiệp đòi hỏi, Ác-nu hầu như biết rất rõ mọi người An Nam khả nghi sống ở Pa- ri, được báo cáo tỉ mỉ về bước đi của "những kẻ chủ mưu gây bất an" từ Đông Dương sang. Một trong những người đó là Phan Châu Trinh, mở một hiệu ảnh và thực tế đã ngưng hoạt động chính trị. Vả lại, hành động “khiêu khích” như vậy vốn không phải là Phan Châu Trinh, vì ông lúc nào cũng có thái độ kính nể nước Pháp. Một người khác là luật sư Phan Văn Trường, cũng sống ở Pa-ri, được coi là nhà mác-xít, nhưng chỉ là người dịch sách, báo chính trị ra tiếng Việt và không bao giờ tham gia làm những việc như vậy. Chỉ còn một người duy nhất trong số những nhân vật quen biết cũ của Sở Mật thám dám cả gan làm việc này là Phan Bội Châu. Nhưng Ác- nu biết chắc chắn Phan Bội Châu đang ở một nơi nào đó tại miền Nam Trung Quốc, hơn nữa, mới đây ông ta có cho đăng một bài báo, lời lẽ rất ôn hoà có lợi cho chủ trương hợp tác Pháp - Việt. Cả Ác-nu - kẻ có con mắt cú vọ, nhòm ngó khắp nơi, thậm chí cả những người bạn gần gũi của người yêu nước trẻ tuổi đã cả gan cất lên tiếng nói bảo vệ nhân dân bị áp bức của mình ngay giữa trái tim của bọn đế quốc Pháp cũng không biết được và cũng không thể ngờ vào lúc đó rằng, Nguyễn Ái Quốc - tác giả bản Yêu sách, anh Văn Ba, người phụ bếp trên tàu biển, người con trai quan Phó bảng duy nhất ở làng Sen, cậu bé ham hiểu biết Nguyễn Tất Thành - cũng chỉ là một người mà thôi. Kể chuyện Bác Hồ. NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006, t. 2, tr. 19. * * * Chuyện thứ 2: "Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin" Tài liệu sinh hoạt “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác” 4 Ngay sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tôi làm thuê ở Pa-ri, khi thì làm cho một cửa hàng phóng đại ảnh, khi thì vẽ “đồ cổ mỹ nghệ Trung Hoa" (do một xưởng của người Pháp làm ra!). Hồi đó, tôi thường rải truyền đơn tố cáo tội ác bọn thực dân Pháp ở Việt Nam. Lúc bấy giờ, tôi ủng hộ Cách mạng tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên. Tôi chưa hiểu hết tầm quan trọng lịch sử của nó. Tôi kính yêu Lênin vì Lênin là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng đồng bào mình; trước đó, tôi chưa hề đọc một quyển sách nào của Lênin viết. Tôi tham gia Đảng Xã hội Pháp chẳng qua là vì các "ông bà" ấy - hồi đó tôi gọi các đồng chí của tôi như thế - đã tỏ đồng tình với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn như đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu. Hồi ấy, trong các chi bộ của Đảng Xã hội, người ta bàn cãi sôi nổi về vấn đề có nên ở lại trong Quốc tế thứ hai, hay là nên tổ chức một Quốc tế thứ hai rưỡi, hoặc tham gia Quốc tế thứ ba của Lênin? Tôi dự rất đều các cuộc họp một tuần hai hoặc ba lần. Tôi chăm chú nghe những người phát biểu ý kiến. Lúc đầu, tôi không hiểu được hết. Tại sao người ta bàn cãi hăng như vậy? Với Quốc tế thứ hai, hoặc thứ hai rưỡi, hay là thứ ba, thì ng ... ần cơm của con không. Mùa thu năm 1951, Bác đến thăm lớp chỉnh huấn chính trị toàn quân. Sau khi đọc lên những con số cụ thể về tệ nạn tham ô, lãng phí mà ban lãnh đạo nhà trường đã báo cáo với Bác, Bác nói: - Các chú xem đấy, mời có từng này cán bộ mà đã tham ô, lãng phí như vậy, thử hỏi nếu cán bộ trong toàn quân, toàn quốc cũng phạm khuyết điểm như các chú ở đây thì thiệt hại cho công quỹ của Nhà nước, của nhân dân biết bao nhiêu. Ngừng một lát, Bác hỏi: - Ở đây, những chú nào có vợ rồi giơ tay. Có độ một phần ba số cán bộ giơ tay. Bác chỉ vào một đồng chí trong số những người vừa giơ tay ngồi ở hàng ghế đầu, rồi hỏi: - Chú có bao giờ ăn bớt phần cơm của con mình không? Đồng chí cán bộ trả lời: - Thưa Bác, không ạ! - Thế thì tại sao của cải của nhân dân, tiêu chuẩn của chiến sĩ hễ sểnh ra là đút vào túi? Bác vừa nói vừa làm động tác vơ vét và đút vào cái túi vải bên mình. Bác phân tích cho mọi người thấy rõ tham ô, lãng phí là một tệ nạn, một thói xấu, nó giống như sâu mọt đục khoét của cải của nhân dân, nó làm vẩn đục chế độ tốt đẹp của chúng ta, đến đạo đức và nhân phẩm của người cán bộ đảng viên. Hôm nấy, chúng tôi được một bài học nhớ đời. Có anh cúi mặt không dám nhìn lên Bác nữa. Tài liệu sinh hoạt “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác” 147 Hiếu Thảo (theo C.V.C) Trích trong cuốn: “Tấm lòng của Bác” NXB Công an nhân dân, H. 2005 * * * Chuyện thứ 115: Bác muốn biết sự thật kia. Hòa bình lập lại, mặc dù rất vận, Bác vẫn dành thời gian đi thăm bà con nông dân. Lần ấy, vào vụ thu hoạch mùa. Anh em cảnh vệ chúng tôi được lệnh đến trước và bố từ một số chiến sĩ cùng gặt với bà con để tiện cho việc bảo vệ Bác. Trên cánh đồng lúa vàng trải rộng, có khoảng năm sáu tổ đang khẩn trương gặt hái, mấy tổ gặt ở kề ngay đường còn một nhóm gặt mãi xa trong cánh đồng lầy lội. Chúng tôi nghĩ, chắc là Bác sẽ đến thăm mấy tổ gần đường, vì vậy một số anh em bảo vệ trà trộn cùng dân gặt trong những nhóm đó. Chuẩn bị xong, chúng tôi yên chí chờ đợi... Một lúc sau xe Bác đến và dừng lại gần chỗ chúng tôi bố trí. Bác xuống xe nhưng không lại chỗ bà con đang gặt gần đường Người xắn quần, tháo dép đi thẳng ra nhóm đang gặt ở đằng xa. Thấy vậy một đồng chí trong chúng tôi lúng túng gợi ý: - Thưa Bác, chỗ đằng kia nông dân gặt đông quá ạ! Bác quay lại nói ngay: - Đông gì? Các chú bố trí đấy! - Rồi Bác tiếp tục đi. Chúng tôi anh nọ nhìn anh kia ngượng quá. Đến chỗ bà con nông dân đang gặt ở giữa cánh đồng, Bác ân cần hỏi han từ chuyện trong nhà đến việc ngoài đồng... Do hóa trang rất khéo, vả lại buổi đi thực tế của Bác rất bất ngờ, nên bà con nông dân cứ ngỡ là một cán bộ già đi qua đường xuống thăm nói chuyện với Bác rất tự nhiên, vui vẻ. Lúc về nhà, Bác bảo chúng tôi: "Các chú nên rút kinh nghiệm, nếu làm việc gì cần phải bí mật, thì phải làm sao để không ai phát hiện được (hóa ra Bác đã đón thấy trong đám gặt gần đường có cả những anh "nông dân" mặc quần kaki đi gặt). Bác nói tiếp: - Lần này đi thăm bà con nông dân. Bác muốn nói chuyện thật tự nhiên để biết tình hình thực tế. Bác thì Bác muốn biết sự thật kia! Đối với nông dân, điều đầu tiên là phải chân thực. Trần Minh Trưởng (Theo lời kể của các đồng chí Hồng Long, Văn Nam, Văn Phan - Cục Cảnh vệ) Trích trong cuốn: “Bác Hồ chiến sĩ” NXB Quân đội nhân dân, H. 1994 * * * Chuyện thứ 116: Đón vua hay đón Bác. Hồi còn bé, tôi được thấy một lần nhân dân huyện Thiệu Hóa tổ chức đón Bảo Đại đến khánh thành trường tiểu học của huyện. Không biết thợ ở đâu về, họ dựng cổng chào bằng gỗ, bằng mây, bằng cành dừa, đan, cài hoa lá, viết chữ, treo cờ, giăng đèn rất công phu... Các quan sở tại từ các xã xa về, mũ áo thụng xanh, giày hia xúng xính chắp tay chờ đợi. Lính tráng súng ống canh gác nghiêm ngặt. Trông đến lạ mắt... Lớn lên theo cách mạng, tôi được chứng kiến một số lần các cơ quan, đơn vị, đoàn thể, hội nghị đón Bác... Tài liệu sinh hoạt “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác” 148 Lần Bác đến dự lễ kỷ niệm thành lập quân đội ở nhà khách quốc tế trên đường Phạm Ngũ Lão. Bác từ một chiếc xe không được đẹp lắm bước xuống, anh em chúng tôi quên cả kỷ luật chạy ra vây lấy Bác. Mấy đồng chí bảo vệ xô bật chúng tôi ra. Bác chỉ nói nhẹ nhàng: - Các cháu để Bác đi. Các chú đừng làm thế. Lần vào Vinh, sáng sớm, hoa trong vườn tươi là thế mà mới 9, 10 giờ đã rũ xuống làm cho các vị chủ nhà héo hắt cả ruột gan. Bác ra vườn, cầm cây hoa nhổ lên. Thì ra không phải là cây hoa trồng mà mới cắm... Bác cũng nhẹ nhàng nói: - Không nên làm thế... Năm 1953, Trung ương Hội phụ nữ mời Bác đến thăm. Chị em hô hào quét nhà trong, vườn ngoài, đầu cổng sạch sẽ. Các chị căng một khẩu hiệu cắt dán chữ ''Hồ Chí Minh muôn năm'' nhưng không dán các dấu. Lại làm một cổng chào kết lá, cài hoa rừng... Ai cũng bảo nhau mặc quần áo thật đẹp rồi xếp hai hàng, từ cổng vào nhà như kiểu "hàng rào danh dự", hồi hộp, chờ đợi... Sương sớm Việt Bắc đã tan, trời đã đẹp. Chờ mãi không thấy khách đến. Chủ tịch Hội đã sốt ruột hết đi ra, lại đi vào. Bỗng có tiếng báo: - Chị Xuyến ơi! Bác ở trong này rồi!... Thế là hàng rào danh dự tan! Ùa vào trong nhà đã thấy Bác đang thăm vườn rau, giếng nước... Bác bước ra cổng, Bác nói: - Chào các cô, các cháu. Vào nhà thấy vắng. Bác đoán ngay là tất cả ở ngoài này. Nhìn lên khẩu hiệu, Bác cười: - Tiếng Việt ta có dấu, phát âm rất hay, phân biệt rõ ràng. Dán chữ thế này đọc thế nào cũng được, sai ý của mình đi. Vào đến hội trường Bác hỏi: - Các cô đón ai thế? Mọi người ngớ ra, không rõ ý Bác là thế nào. - Thưa Bác, đón Bác đấy ạ! Bác ôn tồn nói: - À ra thế. Các cô đón Bác, chứ có phải đón ông vua, ông quan nào đâu mà sửa soạn trang trí cầu kỳ như thế!... Nghĩ thương các chị mất vui, Bác "rẽ" sang chuyện khác khen: - Sạch sẽ, gọn gàng thường xuyên hay chỉ được hôm nay thôi đấy!... Bây giờ các chị em mời dám "bắt chuyện": - Dạ thưa Bác, thường xuyên ạ. Thảo Hạnh (Theo chị X và các anh H.Đ) Trích trong cuốn: “Tấm lòng của Bác” NXB Công an nhân dân, H. 2005 Chuyện thứ 117: "Cách mạng" theo ý Bác Hồ. Tài liệu sinh hoạt “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác” 149 Năm 1946, khi nêu lên khẩu hiệu "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư", một số cán hộ đã góp ý với Người là nghe "nó cũ quá". Bác đã giải thích, đại ý "không phải cái gì cũ cũng bỏ". Năm 1947, ở Chiến khu Việt Bắc, với tên ký là Tân Sinh, Bác viết cuốn "Đời sống mới", xuất bản lần đầu tiên ngay trong năm đó. Trong trang đầu tiên đề cập tới "Đời sống mới", tác giả viết: "Không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ. Thí dụ: ta phải bỏ hết tính lười biếng, tham lam. Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Thí dụ: Đơn cử cưới hỏi quá xa xỉ, ta phải giảm bớt đi "Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm. Thí dụ, ta phải tương thân, tương ái, tận trung với nước, tận hiếu với dân hơn khi trước. Cái gì mới mà hay thì ta phải làm. Thí dụ, ăn ở cho hợp vệ sinh, làm việc cho có ngăn nắp". Năm 1958, khi đồng chí Giang Đức Tuệ, Bí thư Tỉnh uỷ Thái Bình đến gặp Bác tại Văn phòng Chủ tịch ngày 20 tháng 10, Bác dặn: Cách mạng chỉ xoá bỏ cái xấu, cái dở và giữ lại cái tốt, cái hay". Văn phòng Hội đồng bộ trưởng có lưu trữ một bài nói chuyện của Bác, nhan đề "Thực hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí, chống bệnh quan hên (chưa xác minh chính xác ngày tháng ra đời của văn kiện nên tạm xếp vào năm 1952). Bác nói "Cách mạng là tiêu diệt những cái gì xấu, xây dựng những cái gì tốt''. Bác thực sự đã cho ta một tấm gương sáng về lời nói và cả về hành động cách mạng. Bác đã nghiên cứu, đối chiếu, gạn lọc, xoá bỏ tất cả những cái "xấu'' ngay trong lòng xã hội mới hiện đại, văn minh nhất đương thời, đồng thời đã phát hiện và giữ lại tất cả những cái gì hay, tốt, đẹp của lịch sử phát triển các dân tộc trên thế giới, cổ kim, đông, tây. Người đã thấy được cái hay, cái tốt trong Phật giáo, Thiên chúa giáo, trong Khổng học để vận dụng vào cuộc cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng những điều hay, điều tốt của chủ nghĩa Mác - Lênin. Bác cũng thấy được trong từng con người, từng cộng đồng người tuy "cũ", tuy "xấu", nhưng vẫn còn cái “tốt” để phục vụ cách mạng, mà cái tốt trên hết “là lòng yêu Tổ quốc, yêu nước, thương nòi”. Cho nên, đã có những người trước làm quan to cho Pháp, cho triều đình Huế, đã học và kiếm được nhiều tiền trên đất nước "tư bản'', những nhà "tư sản", những ''địa chủ'', những công dân sống lâu, sống sâu với kẻ địch, nhưng họ vẫn thấy được cái điều ''cách mạng'' ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, tin và đi theo "Cụ Hồ". Người đã đến viếng và thắp hương ở đền Bà Triệu tại Thanh Hoá, thích các làn điệu dân ca Nghệ Tĩnh, Việt Nam, Pháp, Ý. Khi nói, khi viết đều dùng lời lẽ, chữ nghĩa giản dị, khi cần thiết cũng đã nêu lên những ý hay của Tổng thống Hoa Kỳ, dí dỏm của người Anh, sâu sắc của Khổng Tử. Tất cả những điều ấy và biết bao điều khác nữa đâu có thể nói Bác là "cũ". Bác đã từng nói "Một đoàn thể mạnh thì cái tốt ngày càng phát triển, cái dở ngày càng bớt đi. Một điều tốt phải đưa ra cho tất cả mọi người cùng học, một điều xấu phải đưa ra tất cả mọi người cùng biết mà tránh". Người cũng đã dạy rằng xoá điều xấu, làm điều tốt không thể gấp gáp được. Vì nếu có nấu cơm cũng phải 15 phút mới chín, huống chi là sửa chữa cả một nước đã 80 năm nô lệ, người tốt có, người xấu có, một đám ruộng có lúa lại có cỏ, muốn nhổ cỏ cũng phải vài ba giờ mới xong''. Trong tình hình đổi mới của nước ta hiện nay, cụm từ "Cách mạng, cái xấu, cái tốt", nhất thiết cũng cần cho chúng ta suy nghĩ. Mở cửa đón gió bốn phương, không phải "nhập" cả những điều “mới”, “hiện đại” nhưng lại xấu xa, đồi bại, có những cái không tốt của "khách'' mà chính họ cũng bỏ, tởm lợm, càng không phải một cuộc "loại bỏ'' những cái "cũ" đẹp dần mất đi, cái Tài liệu sinh hoạt “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác” 150 “mới” chưa tốt lại đang được o bế, đang có "môi trường'' sinh sôi nảy nở. Điều này làm cho những ai đó, rất cực đoan, muốn trở lại hai đầu "cũ, cũ hết, mới, mới hết; cũ xấu hết, mới tốt hết". Đó là một thái độ không "cách mạng", như lời Bác dạy. Theo cuốn: "Nhớ lời Bác dạy" *
Tài liệu đính kèm: