Chuyên đề: Một vài biện pháp giúp học sinh giỏi khối 5 nắm được kiến thức một cách bền vững

Chuyên đề: Một vài biện pháp giúp học sinh giỏi khối 5 nắm được kiến thức một cách bền vững

I. Đặt vấn đề

 Việc bồi dưỡng học sinh giỏi là một việc làm thường xuyên của tất cả các thầy cô giáo từ lớp 1 đến lớp 5 và xem đây là một tiêu chí trong quá trình phấn đấu của chính bản thân mỗi người. Mỗi học sinh được đánh giá là học sinh giỏi phải đạt hai môn Toán và Tiếng Việt từ 9 điểm trở lên cộng hưởng với các môn học khác như TNXH và các hoạt động giáo dục khác nữa. Đáng lẽ với sự đánh giá cao của thông tư 32 thì mỗi học sinh phải có một vốn kiến thức nhất định được tích lũy qua mỗi lớp. Tuy nhiên, với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của Tiểu học là: “ Học để nhớ, nhớ rồi lại quên, quên rồi lại nhớ”. Với lớp 5 là lớp cuối cấp của Tiểu học lượng kiến thức các em thu nhặt nhiều, nhiều dạng kiến thức kể cả Toán lẫn Tiếng Việt mà khả năng tích lũy, liên tưởng không bền vững nên không thể tái hiện đầy đủ đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng giải trong nhiều năm lại đây. Đây cũng là điều trăn trở không nhỏ của các thầy cô được phân công dạy lớp 5. Do vậy Tổ tôi cũng mạnh dạn chọn chuyên đề này nhằm trao đổi cùng thầy cô để cùng nhau tìm những giải pháp tối ưu nhằm mục đích định hường một số biện pháp bồi dưỡng phù hợp để nâng cao chất lượng học sinh giỏi ngang tầm với khu Đông của huyện. Đó cũng chính là nội dung chuyên đề: “Một vài biện pháp giúp học sinh lớp 5 nắm được kiến thức một cách bền vững”.

 

doc 8 trang Người đăng minhanh10 Lượt xem 676Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề: Một vài biện pháp giúp học sinh giỏi khối 5 nắm được kiến thức một cách bền vững", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề:
MỘT VÀI BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH GIỎI KHỐI 5 NẮM ĐƯỢC KIẾN THỨC MỘT CÁCH BỀN VỮNG.
I. Đặt vấn đề
	Việc bồi dưỡng học sinh giỏi là một việc làm thường xuyên của tất cả các thầy cô giáo từ lớp 1 đến lớp 5 và xem đây là một tiêu chí trong quá trình phấn đấu của chính bản thân mỗi người. Mỗi học sinh được đánh giá là học sinh giỏi phải đạt hai môn Toán và Tiếng Việt từ 9 điểm trở lên cộng hưởng với các môn học khác như TNXH và các hoạt động giáo dục khác nữa. Đáng lẽ với sự đánh giá cao của thông tư 32 thì mỗi học sinh phải có một vốn kiến thức nhất định được tích lũy qua mỗi lớp. Tuy nhiên, với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của Tiểu học là: “ Học để nhớ, nhớ rồi lại quên, quên rồi lại nhớ”. Với lớp 5 là lớp cuối cấp của Tiểu học lượng kiến thức các em thu nhặt nhiều, nhiều dạng kiến thức kể cả Toán lẫn Tiếng Việt mà khả năng tích lũy, liên tưởng không bền vững nên không thể tái hiện đầy đủ đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng giải trong nhiều năm lại đây. Đây cũng là điều trăn trở không nhỏ của các thầy cô được phân công dạy lớp 5. Do vậy Tổ tôi cũng mạnh dạn chọn chuyên đề này nhằm trao đổi cùng thầy cô để cùng nhau tìm những giải pháp tối ưu nhằm mục đích định hường một số biện pháp bồi dưỡng phù hợp để nâng cao chất lượng học sinh giỏi ngang tầm với khu Đông của huyện. Đó cũng chính là nội dung chuyên đề: “Một vài biện pháp giúp học sinh lớp 5 nắm được kiến thức một cách bền vững”.
II. Thực trạng
Trong các năm gần đây, kết quả đạt học sinh giỏi không theo mong muốn của mình. Kết quả hai năm gần đây đẩy quá xa so với các trường lân cận do các nguyên nhân sau đây:
	Một là, do luồng học sinh không có khả năng tái hiện kiến thức. Bên cạnh đó, các em quá máy móc, khả năng tư duy quá hạn chế, các bài tập đã học rồi nhưng chỉ cần thay đổi số hoặc đổi nội dung lệch đi một tí là các em không xác định dược dạng toán.
	Hai là, tính cẩn thận không có hoặc giả có chăng chỉ là rất ít nên bài làm trình bày bẩn, bỏ lung tung, đơn vị không chính xác, lời giải không rõ ràng, đặt câu các thành ngữ tục ngữ không rõ nghĩa, không thuộc thành ngữ tục ngữ, văn viết sai chính tả, xác định từ loại còn quá mơ hồ vì không hiểu được ý nghĩa của danh từ, động từ, tính từ, còn lẫn lộn giữa từ láy và từ ghép.
	Ba là, thầy cô bồi dưỡng quá cao không bám sát kiến thức sách giáo khoa, các bài trong sách giáo khoa phần cuối năm thầy cô dạy còn nửa vời chưa chuyển tải hết đến cho các em.
	Bốn là phương pháp dạy của mỗi thầy cô khác nhau nên từ lớp dưới lên lớp trên cùng một dạng bài tập nhưng hướng dẫn theo nhiều cách khác nhau do vậy học sinh sẽ bị phân tâm trong lúc làm bài. 
III. Giải quyết vấn đề
Hệ thống hóa kiến thức từ dễ đến khó. 
Đây là một việc làm đòi hỏi sự kết hợp của các thầy cô từ lớp hai đến lớp 5. Bởi lẽ, kiến thức của lớp 5 là dung hòa lượng kiến thức từ khối Hai đến lớp 4. Ở lớp 5 chỉ có học thêm một số dạng kiến thức nữa và chủ yếu ôn luyện để nâng dần mà thôi. Bởi lẽ kiến thức toán được xây dựng theo nguyên tắc đồng tâm và mở rộng dần của hình trôn ốc.
Ví dụ: Môn Toán: Tính nhanh: 
Ở lớp Hai: Tính nhanh tổng sau: 
a. 27 + 45 + 23 + 55
b. 5 + 5 × 2 + 5 × 3 + 5 × 4
c. 14 + 21 + 7 × 5
Ở lớp 3: 
a. 357 + 455 + 643 + 545
b. 1 + 2 + 3+ 4 + 5 + 6 + 7 + 8 + 9
c. 35 + 70 + 210 + 35
Ở lớp 4: 
a. 5365 + 2585 + 4635 + 7415
b. 
c. 
Ở lớp 5: 
a. 432 825 + 243222 + 567 175 + 756778
b. 
c. 
Môn Tiếng Việt: 
Ở lớp Hai: 
Nắm và học thuộc các thành ngữ:
Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại.
Sạng lớp Ba: Em hiểu thành ngữ trên nói gì?
Sang lớp Bốn: Đặt câu với thành ngữ trên?
Sang lớp Năm: Tìm và đặt câu với thành ngữ nói về tinh thần quan hệ với hàng xóm láng giềng?
Cũng học về thành ngữ tục ngữ nhưng yêu cầu mỗi lớp sẽ khác, đối với lớp Hai chỉ mới mớm cho các em học thuộc chứ chưa hiểu lên lớp Ba cần phải hiểu nhưng bước sang lớp Bốn đòi hỏi các em phải vận dụng vốn hiểu biết của tiếng, từ để đặt được câu có nghĩa nhưng ở lớp Năm yêu cầu cao hơn vừa cũng cố của lớp Bốn nhưng phải hiểu của lớp Ba và nhớ của lớp Hai mới chọn được câu phù hợp với câu lệnh để đặt câu.
Tương tự như thế ta cũng tìm ra được các bài tìm X các bài tìm số, tìm phân số các dạng toán về tuổi, về sơ đồ nhiều hơn, ít hơn, Tổng-hiệu, Trung bình cộng, Tổng-tỉ, Hiệu-tỉ, Toán liên quan đến diện tích các hình, các dạng toán liên quan đến tỉ lệ.
Phải học cùng các em mới biết em cần gì?
Với tôi mỗi thầy cô cần phải cùng các em học thì mới biết các em cần gì, các em thích làm gì? Vì sao các em sai? Khi các em sai ta cần làm gì? Các em luôn thích gọi lên làm bài, thích khen nhiều hơn chê, thích động viên hơn, cùng một bài có thể gọi hai em làm khi sửa chỉ cụ thể cái hay của em này cho em kia và các bạn học tập và ngược lại. Mặt khác, nếu bài toán có nhiều phương pháp giải cần có sẵn các phương án để cung cấp cho cho em nhưng cần chọn phương pháp dễ hiểu nhất, ngắn gọn nhất để lưu ý khắc sâu.
3. Rèn cho các em kĩ năng tự tìm tòi và nắm lại kiến thức bằng cách tích lũy qua vở tự học.
Mỗi một lớp đi qua là các em được thầy cô cung cấp và trau dồi thêm một lượng kiến thức càng lên lớp thì lượng kiến thức lại nhân theo cấp số nhân làm sao nhớ cho hết. Đề thi có thể ra bất cứ ở lớp nào miễn sao các em đã học. Do vậy, theo tôi cần rèn cho học sinh cập nhật các kiến thức cơ bản theo lớp để làm tư liệu học tập đặc biệt là những công thức Toán, các quy tắc cần thiết hay các câu thành ngữ, tục ngữ theo hệ thống. Mỗi GV cần nghiên cứu tích lũy các câu tục ngữ thành ngữ từ lớp Ba trở lên hướng dẫn các em dưới nhiều hình thức như điền để hoàn thiện, tìm theo yêu cầu của câu lệnh rồi hướng dẫn đặt câu.
 Ví dụ: Môn Tiếng Việt, Ở lớp Hai:
Các em học các câu thành ngữ, tục ngữ: Nhanh như cắt, khỏe như voi, Nhát như thỏ, Dữ như cọp ( luyện từ và câu lớp 2/95 tập 2.
Lớp Ba các em phải xếp các câu tục ngữ theo yêu cầu cho trước. Bài LTVC / 33 tập 1
Cha mẹ đối với con cái
Con cái đối với ông bà cha mẹ
Anh chị em đối với nhau
Con có cha như nhà có nóc.
Con có cha mẹ như măng úp bẹ.
Con hiền cháu thảo.
Con cái khôn ngoan vẻ vang cha mẹ.
Chị ngã em nâng.
Anh em như thể tay chân
Rách lành đùm bọc .
Điền từ còn thiếu để hoàn thành các câu ca dao:
Các không ăn muối cá .. Mồ hôi mà đổ xuống.
Con cãi cha mẹ trăm  con hư Dâu xanh lá tốt vấn tơ tằm
Lớp 4: Chọn từ điền vào cho hoàn thành thành ngữ, tục ngữ sau: Bài 3/33 tập 1
a. Hiền như. b. Lành như 
c. Dữ như d. Thương nhau như chị.
Em hiểu nghĩa của các thành ngữ tục ngữ sau như thế nào? (Bài 4/34 tập 1)
a. Môi hở răng lạnh. b. Máu chảy ruột mềm.
c. Nhường cơm sẻ áo. d. Lá lành đùm lá rách.
Bài 5/99 tập 1
a. Cầu được ước thấy b. Ước của trái mùa
c. Ước sao được vậy d. Đứng núi này trông núi nọ.
Bài 4/49 tập 1: Có thể dùng các câu tục ngữ nào dưới đây để nói về tính trung thực hoặc về lòng tự trọng.
a. Thẳng như ruột ngựa. b. Giấy rách phải giữ lấy lề.
c. Thuốc đắng dã tật. d. Cây ngay không sợ chết đứng.
e. Đói cho sạch rách cho thơm.
Bài 4/83 Tập 2 Các câu thành ngữ sau, thành ngữ nào nói về đức tính dũng cảm. Hãy đặt câu:
 Ba chìm bảy nổi, vào sinh ra tử, cày sâu cuốc bẫm, chết vinh còn hơn sống nhục, gan vàng dạ sắt, nhường cơm sẻ áo, chân lấm tay bùn.
Lớp 5: Đặt câu với một trong những thành ngữ dưới đây:
a. Bốn biển một nhà. b. Kề vai sát cánh.
c. Chung lưng đấu sức. d. Muôn người như một.
Bài 3/56 
a. Cầu được ước thấy. b. Năm nắng mười mưa.
c. Nước chảy đá mòn. c. Lửa thử vàng gian nan thử sức.
Bám sát kiến thức sách giáo khoa để chuyển tải đến các em
Trong các năm gần đây đề thi HSG của BPTH ra hầu như bám sát SGK, đa phần các bài tập rơi từ 2 đến 3 bài đã trùng y nguyên hoặc dã có khác thì cũng na ná các bài nằm phía sau thuộc nội dung luyện tập chung. Đối với môn Tiếng Việt thì hầu như các nội dung thuộc cảm thụ văn học, phân tích cấu tạo câu, các biện pháp nghệ thuật nằm trọn vẹn trong SGK. Do vậy, bám sát các bài tập đọc sách giáo khoa để phân tích câu, củng cố điền dấu câu, xác định TN, CN, VN, xác định từ loại, các loại từ ghép, từ phức dưới nhiều dạng bài tập cụ thể.
 Luôn chú ý đến kiến thức cơ bản, tuyệt đối không để các em hỏng kiến thức cơ bản mà cung cấp nâng cao. Tận dụng tất cả thời gian rỗi để dạy cho các em với phương châm “Mưa dầm thấm lâu”
Đối với môn Toán không những dạy đủ mà còn dạy chắc công thức, quy tắc cách nhận dạng Toán, chuyển tải tất cả kiến thức sách giáo khoa đến cho các em trước lúc tham gia khảo sát cấp huyện, mỗi dạng Toán cần hệ thống nhiều bài tập cùng dạng, một bài có thể chuyển tải nhiều lần với nhiều thời điểm khác nhau nhằm khắc sâu trong các em.
Ví dụ đề thi môn Toán năm 2011 ra ngay bài 1/180 phần 2
Tuổi của con gái bằng tuổi mẹ, tuổi của con trai bằng tuổi mẹ. Tuổi của con gái cộng với tuổi con trai là 18 tuổi. Hỏi mẹ bao nhiêu tuổi ?
Đề thi môn Toán năm 2012 sách Toán 5/175
Lúc 6 giờ, một ô tô chở hàng đi từ A với vận tốc 45km/giờ. Đến 8 giờ, một ô tô du lịch cũng đi từ A với vận tốc 60km/giờ và đi cùng chiều với ô tô chở hàng. Hỏi đến mấy giờ thì ô tô du lịch đuổi kịp ô tô chở hàng ?
Môn Tiếng Việt hầu như ra phần đọc hiểu bám sát SGK chủ yếu là phân tích TN, CN, VN.Nếu có ra xa hơn một tí thì liên hệ đến lớp 4 
Ví dụ: Đặt câu với một thành ngữ hoặc tục ngữ mà em đã được học nói về tính ngay thẳng trung thực.
Thường xuyên cung cấp bài tập cùng dạng
Lớp Năm là lớp cuối cấp nên Môn Toán đã được học rất nhiều bởi vì môn học nào cũng được xây dựng dựa trên nguyên tắc đồng tâm và mở rộng dần theo hình trôn ốc, dựa trên cái đã biết để hình thành nên cái chưa biết. Do vậy cần bám sát kiến thức mới của SGK để bồi dưỡng, học đến đâu thì được bồi dưỡng đến đó. Theo tôi không nên am đàm nhiều bởi lẽ như thế các em sẽ rối rắm không nắm hết được và sẽ nhầm lẫn dạng này với dạng khác. Để thực hiện được như thế theo tôi cần phải đi theo quy trình sau: 
Một là nắm lại kiến thức từ lớp 3 trở lên phần đọc viết số có mấy chữ số, các công thức về hình em đã được học những công thức nào như là hình chữ nhật, hình vuông, dạng toán rút về đơn vị. lên lớp Bốn các em được mở rộng thêm công thức hình bình hành, hình thoi các dạng toán TBC, Tổng-hiệu, Tổng-tỉ, Hiệu-tỉ, và các dạng toán quan hệ tỉ lệ. Đối với lớp 5, ½ chương trình đã là ôn tập các kiến thức đó dưới dạng mở rộng dần sau đó học mới thêm hỗn số, số thập phân, các loại hình hình tam giác, hình thang, hình hộp chữ nhật, hình lập phương, hình tròn cả công thức tính chu vi, diện tích và thể tích. Do vậy, kiến thức lớp Năm là kiến thức tổng hợp làm dung hòa tất cả nội dung học tập của toàn cấp đòi hỏi giáo viên phải biết chọn lọc cái gì nên bồi dưỡng cái gì không nên vì cung cấp nhiều quá các em sẽ lẫn lộn dạng này với dạng khác.
Hai là chẻ tất cả các đề thi để lọc ra các bài tập cùng dạng nhằm rèn kĩ năng cho các em. Mặt khác coi trọng sách bài tập Toán 5 để rà soát đưa ra bồi dưỡng, khi vận dụng sách 400 bài Toán 5 cần chọn các bài vừa sức không nên ôm đồm hết vì kiến thức trong đó có nhiều bài quá cao và nhiều bài giải không chính xác
Ví dụ các dạng bài tính nhanh:
a. Tính nhanh với số tự nhiên:
a. 415 + 415 + 415 x 98 e. 15 + 15 x 2 + 7 x 15 - 100
b. 1999 x 7 + 1999 + 1999 x 2 g. 62 - 52 + 37 + 28 - 38 
c. 754 x 75 – 2262 x 25 + 4568 h. ( 13 x 15 - 12 x 15 - 15) x (1 + 2 + 3 ++ 99)
d. 35 x 18 – 9 x 70 + 100 i. 2 x 4 x 6 x 8 x 50 x 25 x 125
b. Tính nhanh với phân số:
a. b. 
c. d. 
e. g 
h. i. 
k. 
c. Tính nhanh số thập phân liên quan đến phân số, số tự nhiên, tỉ số phần trăm: 
a. (792,81 x 0,25 + 792,81 x 0,75) x (11 x 9 – (900 x 0,1 + 9)
b. 
c. 14,3 x 4,7 + 5,3 x 14,3 – 1,4 x 7,5 + 7,5 x 4,6
d. 12, 357 – 4,725 – 3,275 h. 0,3 x 0,06 x 0,003
e. i.
g. k. 
 * Các dạng toán cần quan tâm như TBC chú ý các bài 129, 154, sách 400 bài.
Tìm hai số khi biết Tổng-hiệu, Tổng-tỉ, Hiệu-tỉ của hai số gồm các bài cùng dạng từ bài 381 đến 400 trang 55-56 sách 400 bài. Bài 403, 155 sách BTT5.
Dạng tỉ số phần trăm từ bài 199 đến 216 trang 29 sách 400, từ bài 173 đến 184 trang 30 đến trang 32 sách BTT5.
* Ngoài ra, cần chú ý đến các bài toán lên quan đến tính tuổi, tính chu vi, tính diện tích của các hình.
* Môn Tiếng Việt phần luyện từ và câu chuyên đề của BPTH năm 2011-2012 hướng dẫn rất cụ thể và liệt kê rất nhiều bài tập cùng dạng cần nghiên cứu phân tích trao đổi trong tổ để thống nhất bồi dưỡng.
6. Tận dụng tất cả các tiết luyện tập để phân hóa đối tượng nhằm tăng cường bồi dưỡng cho các em.
Đối với các tiết luyện tập chủ yếu rèn kĩ năng thông qua kiến thức cũ là chính thì GV cần mạnh dạn cho học sinh ngồi theo nhóm 3 để đổi vở kiểm tra trước 10 phút. Sau khi hướng dẫn bài tập cho HS đại trà GV kiểm tra xác suất một vài nhóm sau đó giao bài tập. Đến lúc này còn 25 phút các em có thể trao đổi để giải được 1 bài toán nâng cao. Còn nếu các tiết luyện tập mà có cung cấp thêm kiến thức mới GV cần nghiên cứu trước nội dung bài, bài nào mới để lại đến tiết luyện tập giảng cùng với HS đại trà còn các bài còn lại tiến hành như trên. Bài tập thuộc kiến thức mới GV có thể linh động chuyển đổi thứ tự cung cấp trước để các em HSG hoàn thành rồi mới giao bài tập nâng cao. Có như thế mỗi tuần được 2 đến 3 bài nâng cao đến lúc khảo sát các em cũng có được số vốn trong lúc đi thi.
7. Rà soát đề thi các năm qua định hướng cho các em cách học Tập làm văn.
Đây là một trong những phân môn khó nhất, em học giỏi Toán chưa hẳn viết văn hay. Bởi lẻ, viết văn đòi hỏi các em phải gieo hồn mình vào trong văn cảnh cụ thể, trí tưởng tượng tốt các em mới viết bài văn có hồn được nhưng đa số HSTH khả năng tư duy trừu tượng còn rất hạn chế do đó việc viết được bài văn có vốn từ đã khó huống thay viết được bài văn có hồn trong đó là điều không dễ gì đạt được.
Do đó, theo tôi nên cho các em học thuộc các đoạn văn tả cảnh, tả người. Sau đó, từng đề bài cụ thể GV hướng dẫn cho các em lượm lặt, chọn chi tiết phù hợp đưa vào từng bài văn cụ thể.
Hai là thường xuyên củng cố lại các đề thi các năm qua cho các em đọc văn mẫu trước sau đó ra lại làm GV kiểm tra.
Ba là cho các em học thuộc các đoạn văn tả cảnh, tả người hay đề vận dụng vào đề văn cụ thể.
Ví dụ: Tả cơn mưa GV nên cho học sinh thuộc bài mưa rào sách TV/1
 Tả cánh đồng thì học thuộc bài cánh đồng mùa thu để vận dụng.
 Tả người thân học thuộc bài bà tôi để vận dụng.
 Tả bạn học bạn hàng xóm hướng dẫn HS học bài cậu bé làng biển.
	Trong nhiều năm giảng dạy với 5, bản thân tôi một phần học hỏi những thầy cô đi trước, một phần đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn giảng dạy, đã định hướng nêu lên một số biện pháp để cùng nhau bàn bạc đi đến thống nhất nhằm bồi dưỡng tốt đảm bảo chỉ tiêu đề ra. Mặt khác, cũng trao dồi kiến thức cho các em vững bước ở THCS. Trong quá trình viết chuyên đề theo ý kiến chủ quan của tôi chắc hẳn còn nhiều hạn chế mong các thầy cô đóng góp, hiến kế nhằm thực hiện tốt nghị quyết mà trường ta đã thông qua trong hội nghị. 
	 Cuối cùng chúc các thầy cô khỏe, hạnh phúc gặt hái được nhiều thành công trong năm học này.
 Người viết
 Nguyễn Thị Tư

Tài liệu đính kèm:

  • docChuyên đề tổ 5.doc