Sự ra đời của Quốc kỳ Việt Nam
Lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện lần đầu tiên trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ
chống thực dân Pháp ( 23/11/1940 ). Tác giả sáng tọa lá cờ nền đỏ ở giữa có ngôi
sao vàng năm cánh này là đồng chí Nguyễn Hữu Tiến ( sinh ngày 5/3/1901 tại
Hà Nam, bị địch bắt và xử bắn ngày 28/8/1941 cùng các chiến sỹ Nam Kỳ khởi
nghĩa tại Hoóc Môn, trong đó có cả Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Hà
Huy Tập ) Tâm huyết của tác giả khi sáng tạo lá cờ Tổ quốc được khắc họa rõ
nét trong bài thơ của ông:
Hỡi những ai máu dỏ da vàng
Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc
Nền cờ thắm máu đào vì nước
Sao vàng tươi, da của giống nòi
Đứng lên mau hồn nước gọi ta rồi
Hỡi sỹ nông công thương binh
Đoàn kết lại như sao vàng năm cánh
Trường Tiểu Học Y JÚT Giáo án lớp 4 ----------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Giáo Viên Biên Soạn: Đặng Thị Yên BÀI MỘT QUỐC KỲ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Mỗi dân tộc, một quốc gia đều có Quốc kỳ riêng của mình. Việt Nam là một dân tộc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; Quốc kỳ Việt Nam là lá cờ đỏ sao vàng. Sự ra đời của Quốc kỳ Việt Nam Lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện lần đầu tiên trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ chống thực dân Pháp ( 23/11/1940 ). Tác giả sáng tọa lá cờ nền đỏ ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh này là đồng chí Nguyễn Hữu Tiến ( sinh ngày 5/3/1901 tại Hà Nam, bị địch bắt và xử bắn ngày 28/8/1941 cùng các chiến sỹ Nam Kỳ khởi nghĩa tại Hoóc Môn, trong đó có cả Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Hà Huy Tập) Tâm huyết của tác giả khi sáng tạo lá cờ Tổ quốc được khắc họa rõ nét trong bài thơ của ông: Hỡi những ai máu dỏ da vàng Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc Nền cờ thắm máu đào vì nước Sao vàng tươi, da của giống nòi Đứng lên mau hồn nước gọi ta rồi Hỡi sỹ nông công thương binh Đoàn kết lại như sao vàng năm cánh. Hình ảnh, biểu tượng của Quốc kỳ Việt Nam Quốc kỳ Việt Nam là biểu tượng của hồn nước, lòng dân, của tình đoàn kết đời đời bean vững của đại gia đình các dân tộc Việt Nam và là biểu tượng thiêng Trường Tiểu Học Y JÚT Giáo án lớp 4 ----------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Giáo Viên Biên Soạn: Đặng Thị Yên liêng nhất, thể hiện nhiệt huyết cách mạng, sự hy sinh anh dũng của toàn thể nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến đánh đuổi quân xâm lược, giành chính quyền, thống nhất toàn vein lãnh thổ. Lá cờ đỏ sao vàng, biểu tượng chung nhất của dân tộc Việt Nam, đã khắc sâu vào tâm khảm của mỗi người dân Việt Nam và đã được cộng đồng quốc tế công nhận và tôn trọng. Lá cờ đỏ sao vàng là một minh chứng khẳng định sự thống nhất, độc lập, tự chủ và hòa bình của dân tộc Việt Nam. Điều đó đã được chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định và lịch sử kiểm chứng trong gần một thế kỷ qua, đó là: “ Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể moon nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. Lịch sử của Quốc kỳ Việt Nam. Lá cờ đỏ sao vàng Việt Nam gắn liền với những năm tháng đấu tranh kiên cường, bất khuất, đổ máu hy sinh anh dũng của nhân dân Việt Nam đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi của Tổ quốc, giành chính quyền, thống nhất đất nước, đưa cách mạng Việt Nam vượt muôn vàn khó khăn để có được cuộc sống hào bình, ấm no, hạnh phúc ngày nay. Từ năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng. Thời kỳ đầu, trong các cuộc đấu tranh đã xuất hiện lá cờ đỏ có ngôi sao vàng năm cánh nhưng được lồng trên hình búa liềm. Năm 1940, xứ ủy Đảng Cộng sản Đông Dương ở Nam Kỳ họp quyết định khởi nghĩa, đã thực hiện di huán của Đ/c Trần Phú – Tổng bí thư đầu tiên của Đảng – Lấy cờ đỏ sao vàng làm lá cờ khởi nghĩa với ước muốn là sau khi đánh đổ đế quốc Pháp sẽ thành lập nước Việt Nam Cộng hào dân chủ và quốc kỳ Việt Nam sẽ là lá cờ đỏ có ngôi sao vàng năm cánh. Tháng 5/1941 tại Khui Nậm, Cao Bằng, Lãnh tụ Hồ Chí Minh chủ trì hội nghị Trung ương VIII quyết định thành lập tổ chức Việt Nam độc lập đồng minh. Đoạn mở đầu chương trình Việt Minh nghi rõ: “ Sauk hi đánh đuổi đế quốc Pháp, Nhật, sẽ lập lên Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm quốc kỳ”. Đây là văn bản đầu tiên, chính thức quy định quốc kỳ của nước Việt Nam là cờ đỏ sao vàng. Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào, Tuyên Quang đã quyết định Quốc kỳ Việt Nam là nền đỏ, ở giữa coa một sao vàng năm cánh. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Quốc hội khóa đầu tiên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 đã ghi vào Hiến pháp: “ Quốc kỳ Việt Nam dân chủ cộng hòa hình chữ nhật,chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh”. Sau ngày 30/4/1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, non sông Việt Nam đã liền một dải. Từ ngày 24/6 đến 3/7/1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất họp tại thủ đô Hà Nội, đã thông qua nhiều Nghị quyết quan trọng, trong đó Trường Tiểu Học Y JÚT Giáo án lớp 4 ----------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Giáo Viên Biên Soạn: Đặng Thị Yên công nhận Quốc kỳ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cách. Ý nghĩa của Quốc kỳ Việt Nam. Quốc kỳ Việt Nam có nền đỏ tượng trưng cho màu nhiệt huyết cách mạng, màu chiến đấu và chiến thắng; màu vàng của ngôi sao tượng trưng cho sự sáng ngời của linh hồn dân tộcViệt Nam,năm cánh sao là sức mạnhđoàn kết của các tầng lớp đồng bào chiến đấu giành độc lập, tự do cho tổ quốc. Quốc kỳ Việt Nam được tung bay trên khắp các công sở, trường học, các Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài, các cửa khẩu, các buổi mít tinh, lễ noun tiếp các đoàn khách cấp cao nước ngoài, Quốc kỳ Việt Nam cũng được giương lên cùng với Quốc kỳ của những nước trên thế giới khi các đoàn cấp cao của chúng ta đến thăm và làm việc. Cờ đỏ sao vàng Việt Nam cũng được tung bay trên từng nóc nhà mỗi gia đình Việt Nam vào những ngày lễ hội, Tết cổ truyền . Lá cờ dỏ sao vàng là Quốc kỳ duy nhất đại diện cho dân tộc Việt Nam, điều đó đã khắc sâu vào tâm khảm của mỗi người dân Việt Nam như chủ tịch Hồ Chí Minh, vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam đã khẳng định tại cuộc họp Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946: “ Lá cờ đỏ sao vàng đã thấm máu đồng bào ta trong Nam kỳ khởi nghĩa năm 1940. Chính lá cờ này đã cùng phái đoàn chính phủ đi từ Á sang Âu, từ châu Âu vềchâu Á, cờ đã có mặt trên khắp đất nước Việt Nam. Vậy thì trừ 25 triệu đồng bào, còn không ai có quyền đòi thay đổi Quốc kỳ và Quốc ca ”. Đó là hồn nước, niềm tự hòa, biểu tượng thiêng liêng bất khả xâm phạm của bản sắc dân tộc Việt Nam. Liên hệ: - Quốc kỳ thể hiện độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ,biểu tượng thiêng liêng trong dân tộc Việt Nam đó là tự hào dân tộc trong mỗi chúng ta. - Luôn ghi nhớ và khắc sâu công ơn của các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh anh dũng cho hòa bình và độc lập dân tộc cho Tổ quốc toàn vẹn thống nhất - Tôn trọng Quốc kỳ,Quốc kỳ đại diện cho Quốc thể nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. BÀI HAI Trường Tiểu Học Y JÚT Giáo án lớp 4 ----------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Giáo Viên Biên Soạn: Đặng Thị Yên QUỐC CA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 1. Đồn quân Việt Nam đi Chung lịng cứu quốc Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước, Súng ngồi xa chen khúc quân hành ca. Đường vinh quang xây xác quân thù, [nguyên thuỷ câu này là: thề phanh thây uống máu quân thù] Thắng gian lao cùng nhau lập chiến khu. Vì nhân dân chiến đấu khơng ngừng, Tiến mau ra sa trường, Tiến lên, cùng tiến lên. Nước non Việt Nam ta vững bền. Trường Tiểu Học Y JÚT Giáo án lớp 4 ----------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Giáo Viên Biên Soạn: Đặng Thị Yên 2. Đồn quân Việt Nam đi Sao vàng phấp phới Dắt giống nịi quê hương qua nơi lầm than Cùng chung sức phấn đấu xây đời mới, Đứng đều lên gơng xích ta đập tan. Từ bao lâu ta nuốt căm hờn, Quyết hy sinh đời ta tươi thắm hơn. Vì nhân dân chiến đấu khơng ngừng, Tiến mau ra sa trường, Tiến lên, cùng tiến lên. Nước non Việt Nam ta vững bền. Quốc ca cùng với Quốc kỳ cờ đỏ sao vàng luôn là biểu tượng đẹp không phai mờ đối với mỗi người Việt Nam. Cũng tại Quốc hội khóa I, cùng lúc thông qua Quốc kỳ, Quốc hội cũng đã nhất trí lấy bài Tiến Quân Ca của Văn Cao làm Quốc ca chính thức. Theo lời nhạc sỹ Văn Cao, bài Tiến Quân Ca được hoàn thành vào cuối tháng 10/1944. Nhà văn Vũ Bằng nhớ lại trong một bài viết như sau: “..19/8 là ngày khởi nghĩa cả nước vùng lên mở hội, từ thôn quê đến thành thị, từ ngõ hẻm đến hang cùng,cuồn cuộn những làn sóng gớm ghê, đâu đâu cũng vang âm những tiếng hát “ Tiến quân ca” và “ Diệt phát xít””. Hoàn cảnh ra đời của bài Tiến quân ca: Tiến Quân Ca được viết cuối năm 1944 tại căn gác hẹp nhà số 45 phố Nguyễn Thượng Hiền ( Hà Nội ). Đó cũng là thời kỳ tiền khởi nghĩa, khí thế cách mạng rất sôi sục, tin chiến thắng Võ Nhai lan truyền về Hà Nội khiến các tầng lớp đông bào đều phấn chấn. Sau này chính nhạc sỹ Văn Cao đã nhớ lại: “ Trước mắt tôi mảng trời xám và lùm cây của Hà Nội không còn nữa. Tôi đang sống ở một khu rừng nào đó trên kia, trên Việt Bắc. Có nhiều mây và nhiều hy vọng. Và bài hát đã xong”. Nhạc sỹ viết tiếp: “Quốc ca là sự hình thành của nhiều năm kinh nghiệm và một thời gian dài trăn trở. Khi viết, tôi chỉ nghĩ làm sao cho đáp ứng nh ... Đội, gĩp phần làm nên thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam vào mùa xuân năm 1975. Thực hiện theo năm điều Bác Hồ dạy, Đội TNTP Hồ Chí Minh hồn thành nhiệm vụ trên các mặt hoạt động phấn đấu trở thành con ngoan trị giỏi, cháu ngoan Bác Hồ. 9. Hoạt động của Đội giai đoạn 1986 đến nay Đội TNTP Hồ Chí Minh cũng từng bước đổi mới các hoạt động của mình cho phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước. Đại hội Đồn tồn quốc lần thứ V đã quyết định đổi mới nội dung và mở rộng các hình thức hoạt động Đội nhằm tập hợp đơng đảo thiếu nhi cả nước “Nĩi lời hay, làm việc tốt, phấn đấu trở thành cháu ngoan Bác Hồ”. Các phong trào của Đội phát triển mạnh mẽ với các hình thức đa dạng và luơn đổi mới. Phong trào thi đua học tập, phong trào “Kế hoạch nhỏ”, “Phong trào Trần Quốc Toản” tiếp tục phát triển với những hình thức mới như: “áo lụa tặng bà”, “Uống nước nhớ nguồn”, “Những viên gạch hồng”, “Thiếu nhi nghèo vượt khĩ”,... Đại hội cháu ngoan Bác Hồ tồn quốc lần thứ ba, thứ tư, thứ năm lần lượt được tổ chức để biểu dương thành tích của thiếu nhi. Trong giai đoạn này, liên hoan các nhà thiếu nhi là một nét mới trong tổ chức và hoạt động của Đội TNTP Hồ Chí Minh. Tháng 8 năm 1991, Luật Bảo vệ chăm sĩc và giáo dục trẻ em được Quốc hội thơng qua nhằm thúc đNy mạnh sự nghiệp chăm sĩc, giáo dục trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em phát triển và trưởng thành. Trường Tiểu Học Y JÚT Giáo án lớp 4 ----------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Giáo Viên Biên Soạn: Đặng Thị Yên Ngày 25 tháng 7 năm 2003, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đồn lần thứ 3 (khố VIII) đã quyết định sửa đổi và ban hành Điều lệ Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Đây là cơ sở quan trọng tạo điều kiện cho Đội phát triển mạnh mẽ, vững bước trong thế kỉ 21, xứng đáng là tổ chức của thiếu nhi Việt Nam, là lực lượng giáo dục trong và ngồi nhà trường. 10. Nhiệm vụ của Đội trong giai đoạn 1986 đến nay Thực hiện tốt năm điều Bác Hồ dạy, phấn đấu trở thành con ngoan trị giỏi, bạn tốt, đội viên tốt xứng đáng là cháu ngoan Bác Hồ. 11. Nhiệm vụ qua các thời kì đổi tên của Đội - Đội Nhi đồng cứu quốc cĩ nhiệm vụ là làm giao thơng liên lạc, canh gác các cuộc họp bí mật cho cán bộ, dự bị đánh Tây đuổi Nhật. - Đội Thiếu nhi cứu quốc (1946) cĩ nhiệm vụ làm nhiệm vụ giao thơng liên lạc, trinh sát gĩp phần cùng cha anh tham gia vào các cuộc đấu tranh chống giặc đĩi, giặc dốt, giặc ngoại xâm. - Đội Thiếu nhi Tháng Tám (Tháng 3 năm 1951) cĩ nhiệm vụ là làm theo lời Bác dạy “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ”. - Đội TNTP Việt Nam (Tháng 11 năm 1956) cĩ nhiệm vụ là thực hiện theo năm điều Bác Hồ dạy. - Đội TNTP Hồ Chí Minh (30 tháng 1 năm 1970) cĩ nhiệm vụ thực hiện theo năm điều Bác Hồ dạy: 1. Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào 2. Học tập tốt, lao động tốt 3. Đồn kết tốt, kỷ luật tốt 4. Giữ gìn vệ sinh thật tốt 5. Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm! 12. ý nghĩa những lần đổi tên của Đội - Sau cách mạng tháng Tám thành cơng, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ ra đời mở ra kỉ nguyên mới cho dân tộc: Kỉ nguyên độc lập - Tự do. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta bước sang thời kì mới. Để phù hợp với nhiệm vụ cách mạng và cũng để khắc ghi mốc lịch sử quan trọng của đất nước, Đội Thiếu nhi cứu quốc được đổi tên gọi là Đội Thiếu nhi Tháng Tám (tháng 3 năm 1951). - Thắng lợi to lớn của nhân dân ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ đã kết thúc cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp (1946- 1954), đất nước bị chia cắt hai miền: Miền Bắc được hồn tồn giải phĩng bước vào cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam dưới ách xâm lược của đế quốc Mĩ khơng ngại gian khổ, hi sinh đứng lên chống Mĩ cứu nước nhằm mục tiêu thống nhất nước nhà. Tháng 11 năm 1956, Đội được đổi tên là Đội Thiếu niên Tiền phong Việt Nam với ý nghĩa “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tuỳ theo sức của mình”, Đội luơn tiên phong xung kích đi đầu trong mọi hoạt động của Đội gĩp phần nhỏ bé của mình cùng cha anh chống Mĩ cứu nước. - Ngày 30 tháng 01 năm 1970, Đội vinh dự được mang tên Bác kính yêu: Đội TNTP Hồ Chí Minh. Điều này cĩ ý nghĩa rất to lớn, đĩ là để tưởng nhớ đến cơng ơn vun trồng, dạy dỗ, nâng niu thiếu niên, nhi đồng của Bác Hồ. Đảng ta mong muốn thế hệ trẻ nước ta suốt đời trung thành với lí tưởng của Đảng, của Bác, sống Trường Tiểu Học Y JÚT Giáo án lớp 4 ----------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Giáo Viên Biên Soạn: Đặng Thị Yên chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ, đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng đến thắng lợi hồn tồn. 13. Hồn cảnh ra đời các phong trào lớn Đội 13.1 Phong trào Trần Quốc Toản (tháng 2 năm 1948) Phong trào này do Bác Hồ đề xướng. Tháng 2 năm 1948, xuất phát từ thực tế của cuộc kháng chiến chống Pháp, Bác Hồ đã viết thư cho thiếu nhi: “Qua năm mới, Bác đề nghị các cháu làm một việc là các cháu tổ chức những Đội Trần Quốc Toản để đi đánh giặc và lập được nhiều chiến cơng nhưng mà cốt để tham gia kháng chiến bằng cách giúp đỡ đồng bào”. “Từ 5 đến 10 cháu tổ chức thành một Đội giúp nhau học hành, khi học rảnh, mỗi tuần mấy lần cả đội đem nhau đi giúp đồng bào, trước giúp các nhà chiến sĩ, thương binh, lần lượt giúp những nhà ít người. Sức các cháu làm được việc gì thì giúp việc ấy. Thí dụ quét nhà, gánh nước, lấy củi, giữ em, dạy chữ quốc ngữ, giúp đỡ đồng bào tham gia kháng chiến”. Thực hiện sáng kiến của Bác, phong trào Trần quốc Toản phát triển mạnh mẽ và rộng khắp. Tính sơ bộ, trong thời kì kháng chiến chống Pháp, các em thiếu niên, nhi đồng đã giúp đỡ gia đình thương binh liệt sĩ 27.192 cơng lao động, tát nước, gánh phân, làm cỏ, xay lúa, giã gạo, chăn trâu bị, ... Cơng tác “Trần Quốc Toản” đã trở thành một nội dung cơng tác lâu dài của Đội, gắn bĩ mãi mãi với lịch sử và hoạt động của Đội. Ngày nay, cơng tác “Trần Quốc Toản” được phát triển với nhiều hình thức phong phú như: Đi tìm địa chỉ đỏ, áo lụa tặng bà, ... 13. 2 Phong trào kế hoạch nhỏ (1958) Làm theo lời Bác Hồ dạy: Tuổi nhỏ làm việc nhỏ Tuỳ theo sức của mình Năm 1958, theo sáng kiến của thiếu nhi tỉnh Sơn Tây (nay là Hà Tây) và thành phố Hải Phịng, đĩ là tập hợp các bạn thiếu nhi cùng tham gia làm kế hoạch nhỏ lấy tiền gĩp chung xây dựng nhà máy nhựa Thiếu niên Tiền phong đặt tại Hải Phịng. Ngày 2 tháng 12 năm 1958, Bác Tơn Đức Thắng đã viết thư hoan nghênh sáng kiến đĩ và cho phép mở rộng phong trào kế hoạch nhỏ trong thiếu nhi. Phong trào nhanh chĩng cuốn hút các em thiếu nhi sơi nổi tổ chức chăn nuơi, sản xuất, tiết kiệm và thu nhặt phế liệu. Phong trào được nhân rộng và phát triển rộng khắp trong hoạt động Đội với nhiều hình thức phong phú như: “Trồng một cây, nuơi một con”, thu nhặt giấy vụn, ... 13.3 Phong trào Nghìn việc tốt (1961) Năm 1961, liên đội Tam Sơn, Tiên Sơn, Bắc Ninh cĩ sáng kiến dấy lên phong trào “Làm nghìn việc tốt thực hiện 5 điều Bác Hồ dạy” giành danh hiệu “Cháu ngoan Bác Hồ”. Phong trào nhanh chĩng phát triển sâu rộng trong hoạt động Đội và phong trào thiếu nhi các tỉnh miền Bắc. Phong trào đã được thiếu niên, nhi đồng thực hiện trên mọi mặt hoạt động, từ một điển hình nhân ra nhiều nơi, từ một gương tốt nhân lên thành cả một lớp thiếu niên, nhi đồng mang nếp sống con người mới xã hội chủ nghĩa. 14. Nhiệm vụ, ý nghĩa của 3 phong trào lớn của Đội 14.1 Phong trào Trần Quốc Toản ( tháng 2 năm 1948) Trường Tiểu Học Y JÚT Giáo án lớp 4 ----------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Giáo Viên Biên Soạn: Đặng Thị Yên - Nhiệm vụ của phong trào: Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, phong trào Trần Quốc Toản đã hoạt động hết sức thiết thực. Những đội viên thiếu niên nhi đồng khi tham gia cơng tác Trần Quốc Toản thường tổ chức thực hiện theo các chủ đề sinh động như: “Uống nước nhớ nguồn”, “Tháng đền ơn đáp nghĩa”, “Tháng thăm một lần, tuần làm một việc”, Nhiều gia đình chính sách nhờ đĩ mặc dù cơ đơn, phần lớn chồng con đều đã ra trận nhưng vẫn thấy ấm lịng. Sau ngày đất nước thống nhất, phong trào Trần Quốc Toản vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ. - Ý nghĩa: Phong trào Trần Quốc Toản đã phát huy truyền thống “Tương thân tương ái”, “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta. Phong trào tạo nên một tinh thần cơng tác mới thích hợp với lứa tuổi và điều kiện sinh hoạt của thiếu niên, nhi đồng, là niềm vui của tuổi thơ được gĩp phần thiết thực vào cuộc kháng chiến; giúp tổ chức Đội ngày càng trưởng thành hơn. Phong trào Trần Quốc Toản đã trở thành một nội dung cơng tác lâu dài của Đội, gắn bĩ mãi với lịch sử và hoạt động của Đội ta. 14.2 Phong trào kế hoạch nhỏ (1958) - Nhiệm vụ của phong trào Kế hoạch nhỏ: Các em thiếu nhi sơi nổi tổ chức chăn nuơi, sản xuất, tiết kiệm và thu nhặt phế liệu, giấy các loại; tăng gia trồng cây, nuơi gia cầm phát triển cả nước. Kết quả của phong trào chính là gĩp phần cho ra đời “Đồn tàu lửa mang tên Đội TNTP Hồ Chí Minh”, xây dựng “Khách sạn khăn quàng đỏ” ở Thủ đơ Hà Nội, Xây dựng tượng đài và khu di tích kỉ niệm anh Kim Đồng, xây dựng tượng đài và nhà tưởng niệm anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu; xây dựng cơ sở vật chất cho hoạt động Đội như mua trống, cờ, khăn quàng đỏ, - ý nghĩa: Phong trào từng bước phát triển đi vào chiều sâu, vừa mang tính giáo dục cao, vừa đem lại hiệu quả thiết thực trong đời sống xã hội, trong học tập và rèn luyện của thiếu nhi. 14. 3 Phong trào Nghìn việc tốt (1961) - Nhiệm vụ của phong trào: Xây dựng nền nếp học tập; giữ gìn vệ sinh trường lớp, xĩm làng; chăm sĩc gia đình thương binh, liệt sĩ, người già cơ đơn, lao động giúp đỡ gia đình, hỗ trợ hợp tác xã sản xuất, bảo vệ của cơng, làm kế hoạch nhỏ v.v . Nhiều em thiếu niên thực sự trưởng thành trong phong trào, trở thành những cán bộ tốt, những cơng dân tốt. Phong trào liên tục được duy trì, phát triển và khơng ngừng được tổng kết nâng cao cả về mặt lí luận và thực tiễn. Để tổng kết và biểu dương kết quả của phong trào, kể từ năm 1981 cứ 5 năm Hội đồng Đội Trung ương lại tổ chức một lần Đại hội cháu ngoan Bác Hồ tồn quốc để biểu dương
Tài liệu đính kèm: