Những bài văn chọn lọc Lớp 2, 3

Những bài văn chọn lọc Lớp 2, 3

Câu chuyện; BÚT CỦA CÔ GIÁO

 Một hôm trong giờ tập viết, Tường quên không mang bút. Tường hỏi Vân:

- Mình quên không mang bút, cậu có cái bút dự trữ nào cho tớ mượn với.

 Vân nói:

- Tớ chỉ có một cây bút.

 Ngồi trên bàn giáo viên, cô giáo Ngân Hà nhìn xuống chỗ Tường và Vân, thấy Tường đã đưa vở tập viết ra rồi nhưng chưa viết bài. Thec đõi một lúc cô mới biết Tường quên mang bút.Cô liền đưa bút của mình cho Tường và nói:

-Em về sau đừng như thế nữa.

Tường xúc động nói:

- Em cảm ơn cô ạ.

 

doc 7 trang Người đăng hoaithu33 Lượt xem 857Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Những bài văn chọn lọc Lớp 2, 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những bài văn chọn lọc Lớp 2.3
Câu chuyện; BÚT CỦA CÔ GIÁO
 Một hôm trong giờ tập viết, Tường quên không mang bút. Tường hỏi Vân:
- Mình quên không mang bút, cậu có cái bút dự trữ nào cho tớ mượn với.
 Vân nói: 
- Tớ chỉ có một cây bút. 
 Ngồi trên bàn giáo viên, cô giáo Ngân Hà nhìn xuống chỗ Tường và Vân, thấy Tường đã đưa vở tập viết ra rồi nhưng chưa viết bài. Thec đõi một lúc cô mới biết Tường quên mang bút.Cô liền đưa bút của mình cho Tường và nói: 
-Em về sau đừng như thế nữa.
Tường xúc động nói: 
- Em cảm ơn cô ạ. 
 Khi nhận bài em được 10 điểm. Về đến nhà em khoe ngay với mẹ:
- Hôm nay con được 10 điểm đấy mẹ ạ. Con quên bút nhà con cứ tưởng bị cô giáo trách phạt nhưng cô lại đưa cho con bút của mình để con viết bài.
 Mẹ nói: 
- Mẹ rất vui vì con học giỏi nhưng mẹ nhắc con lần sau nhớ kiểm tra sách vở, đồ dùng học tập trước khi đi học con nhé. 
 Tường nói: 
-Vâng ạ, con sẽ nhớ để lần sau không quên sách vở, đồ dùng học tập nữa. 
Theo tưởng tượng của học sinh Nguyễn Trần Quốc Phú. 
Câu chuyện: CHUYỆN BỐN MÙA 
 1.Một ngầy đầu năm,bốn nàng tiên Xuân, Hạ, Thu, Đông gặp nhau. 
 Đông cầm tay Xuân, bảo: 
 -Chị là người sung sướng nhất đấy! Ai cũng yêu chị. Chị về, vườn cây nào cũng đâm chồi nảy lộc. 
 Xuân nói: 
 -Nhưng phải có nắng của em Hạ, cây trong vườn mới đơm trái ngọt. Có em Hạ, các cô cậu học trò mới được nghỉ hè.
 Cô nàng Hạ tinh nghịch xen vào: 
 -Thế mà thiếu nhi lai thích em Thu nhất. Không có Thu, làm sao có vườn bưởi chín vàng, có đêm trăng rẳm rước đèn phá cỗ 
 Đông, giọng buồn buồn:
 -Chỉ có em là chẳng ai yêu. 
 Thu đặt tay lên vai Đông, thủ thỉ;
 -Có em mới có bập bùng bếp lửa nhà sàn, có giấc ngủ ấm trong chăn. Sao lại có người không thích em được?
 2. Bốn nàng tiên mải chuyện trò, không biết bà Đất đã đến bên cạnh từ lúc nào.
Bà vui vẻ góp chuyện:
 - Các cháu một người một vẻ. Xuân làm cho cây lá tươi tốt, Hạ cho trái ngọt, hoa thơm. Thu làm cho trời xanh cao, cho học sinh nhớ ngày tựu trường. Còn cháu Đông, ai mà ghét cháu được! Cháu có công ấp ủ mầm sống để Xuân về cây cỗi đâm chồi nảy lộc. Các cháu đều có ích, đều đáng yêu. 
Thứ sáu ngày 22 tháng 10 năm 2010.
Tập làm văn
Đề bài: Viết một đoạn văn ngắn khoảng 4-5 câu nói về em và trường em.
Bài làm:
 Ngày ngày, bố mẹ em đưa em đến trường tiểu học Cao Sơn. Ở trường có cô giáo hiền như mẹ, có nhiều bạn bè thân thiết như anh em. Ngoài sân trường những cây bàng xum xuê cành lá che mát một khoảng sân trường. Trường học đã dạy em những điều hay và những điều tốt đẹp. Em rất yêu mái trường của em.
 Bài văn của học sinh Nguyễn Trần Quốc Phú.
Thứ bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010.
Tập làm văn
Đề bài:Viết một đoạn văn ngắn khoảng 4-5 câu nói về cô giáo lớp 1 của em nhờ vào các câu hỏi và các câu trả lời.
a,Cô giáo lớp 1 của em tên là gì?
- Cô giáo lớp 1 của em tên là Bùi Thị Minh Hợp.
b,Tình cảm của cô đối với học sinh như thế nào?
- Tình cảm của cô đối với học sinh là quý mến, yêu thương học sinh và chăm nom cho chúng em từng li, từng tí.
c,Em nhớ nhất điều gì về cô giáo?
- Em nhớ nhất là bàn tay của cô đã uốn nắn cho em viết chữ đẹp và mỗi khi cô vào lớp cô luôn nở một nụ cười chào đón học sinh.
d,Tình cảm của em đối với cô giáo như thế nào?
- Em luôn nhớ đến cô và quý mến, yêu thương cô.
Bài làm
 Cô giáo lớp 1 của em tên là Bùi Thị Minh Hợp. Tình cảm của cô đối với học sinh là quý mến, yêu thương học sinh và chăm nom cho chúng em từng li, từng tí. Em nhớ nhất đôi bàn tay của cô đã uốn nắn cho em viết chữ đẹp và mỗi khi vào cô lớp cô luôn nở một nụ cười chào đón học sinh. Em luôn nhớ đến cô và quý mến, yêu thương cô. 
Câu chuyện: SƯ TỬ VÀ THỎ
 Ngày xưa, có một con sư tử rất hung dữ, nó bắt cả các con vật như: Sóc, thỏ, hươu, nai, lợn rừng vv .Một hôm, có một con thỏ đi dạo thấy sư tử, con thỏ không đi nữa mà chạy trốn. Sư tử nghe thấy tiếng động sư tử vội đuổi theo con thỏ, sư tử sắp tóm được con thỏ thì con thỏ vội van xin hứa ngày mai sẽ đem lễ vật đến. Ngày mai, con thỏ dả để lâu rồi mới đi, sư tử thấy thỏ đến lâu thì giận dữ hỏi:
 - Sao ngươi đến lâu vậy mà lễ vật đâu rồi?
 Con thỏ giả bộ sợ hãi đáp:
 - Dạ con thấy một con sư tử khác ăn hiếp con nhưng con thét lớn sư tử chủ nhân của ta khỏe nhất trong các con sư tử khác đấy cẩn thận kẻo chủ nhân ta tức giận thì ngươi sẽ teo đời, còn lễ vật thì nó đã tức giận rồi quát ta mới là nhà vô địch và ăn luôn lễ vật của con rồi.
 Sư tử cười vui vẻ:
 - Con hãy dẫn ta đến chỗ nó ở để xem ai giỏi hơn ai nào.
 Thỏ đáp:
 - Tất nhiên rồi con đoán là ngài sẽ thắng mà đi theo con, thỏ dẫn sư tử đến một cái giếng rồi nói nhà đó đây rồi.
Sư tử mừng rỡ liền nhìn xuống giếng thấy một con sư tử khác con sư tở ngu ngốc đâu có biết đó chính là cái bóng rồi nhảy ùm xuống giếng. Thỏ cười khoái trá rồi đi báo cho mọi người biết sư tử đã chết. Mọi loài vật đều mừng rỡ và không quên ơn của thỏ.
Câu chuyện đã hết các bạn có biết ở hiền gặp lành ở ác gặp họa không?
Câu chuyện của học sinh Nguyễn Trần Quốc Phú.
Câu chuyện: ANH NÔNG DÂN VÀ CON VỊT VÀNG
 Ngày xưa có một anh trai nghèo phải đi làm thêu cuốc mướn để kiếm sống qua ngày. Một hôm, anh chàng đưa cơm vào rừng để đốn củi thì thấy một ông già kêu đói. Anh liền lấy nắm cơm phần mình cho cụ già ăn. Cụ già ăn xong nói:
-Cháu là một người có tấm lòng nhân hậu, ta sẽ cho cháu một món quà ở đằng kia.
 Anh nông dân đi lại xem thì thấy một con vịt vàng, anh chàng mừng rỡ quay lại cảm ơn ông già nhưng ông già đã biến mất từ bao giờ. 
 Trong cung có một cô công chúa bị câm chẳng nói cười được gì. Vua truyền các người dân trong nước ai làm cho công chúa nói cười được thì nhà vua sẽ cho lấy công chúa.
 Anh chàng nghe thấy vậy mừng lắm, ôm con vịt vào giữa lồng ngực và đi tới cung vua, trên đường đi có hai bác nông dân lấy tay sờ vào lưng anh chàng thì bị dính ngay tay vào lưng anh, có hai cô con gái là con của hai bác nông dân kia chạy đến cứu thì cũng bị dính ngay vào lưng anh chàng. Năm người đi đén cung vua. Công chúa thấy vậy bật cười. Thế là anh chàng đã được làm phò mã. Hai người sống bên nhau hạnh phúc. Khi vua qua đời anh chàng được lên làm vua và trở thành một ông vua hiền minh.
Câu chuyện của học sinh Nguyễn Trần Quốc Phú.
Câu chuyện: DŨNG SĨ ĐAM DÔNG
 Ngày xưa, ở Tây Nguyên có một cô gái xinh đẹp và hiền thục. Một hôm đi hái bắp trên rẫy, cô gặp một quả dưa chuột xanh nằm trên đất. Đang cơn khát, cô liền nặt lên, lau qua rồi ăn ngấu ngiến.
 Cô mang thai từ ngày hôm ấy, và sau bốn mùa rẫy, cô sinh hạ được hai đứa con trai. Thằng anh mắt đen, trán cao, tóc xoăn tít, được mẹ đặt tên cho là Pha, còn thằng em da đen như mun, mắt sáng như sao thì tên là Dông. Hai đứa trẻ khỏe mạnh, lớn nhanh như thổi. Mới lên ba chúng đã biết cầm ná vào rừng sâu săn thú. Buổi tối chúng biết đốt đuốc rủ nhau ra suối soi cá, bắt cua, 
Tìm cái ăn giúp mẹ. Lên mười tuổi, hai anh em đã cầm vừa tay khiên và lao của người lớn, đi dự các hội thi tài, dự các hội săn voi, săn hổ, biết khai khẩn nương rẫy. Hai anh em yêu mẹ và thương nau lắm, quấn quít bên nhau như hình với bóng. 
 Đến ngày lễ đâm trâu, Pha gọi Dông dậy thật sớm đi dự. Hai anh em qua cổng nhà chúa làng, thấy có cuộn ngũ sắc rối bên đường, định nhặt mang về làm dây thả diều. Chúa làng trông thấy, vu cho hai anh em ăn trộm của nhà hắn và đòi phạt vạ. Vì nhà ngèo, không có bạc nén, chiêng đồng để nộp, nên hai anh em phải đến ở đợ cho cho chúa làng để trừ nợ.
 Bà mẹ ở lại một mình trong căn chòi lá, vừa thương con, vừa lo nghĩ buồn phiền nên lâm bệnh nặng và qua đời.
 Pha và Dông thiếu mẹ, càng thương nhau hơn. Ban ngày cùng nhau đi nương làm rẫy. Tối về hai anh em lại ôm nhau ngủ bên bếp lửa hồng. Một buổi sáng, khi chim rừng thức dậy, Dông mở mắt ra thì không thấy anh đâu. Dông vội vã băng rừng, vượt suối tìm Pha, nhưng từ sáng đến tối mịt vẫn chẳng thấy bóng Pha đâu.
 Dông buồn lắm, ngồi ôm gối bên suối âm thầm khóc nhớ anh. Già làng thấy vậy, đành nói cho Dông biết:
 - Trên đỉnh núi cao phía mặt trời lặn có cái hang lớn. Đó là sào huyệt của con quỷ cái hung ác có nhiều phép lạ. Nó có một cái gương thần, hằng ngày nhìn trong gương, thấy buôn nào có chàng trai trẻ đẹp, là biến thành đại bàng bay đến bắt về làm chồng. Chắc nó thấy thằng Pha ưng mắt nên bắt đi mất rồi. 
 Dông nghe già làng nói vậy, quyết đi tìm quỷ dữ để cứu anh. Sớm hôm sau, Dông mang khiên, mang lao, cưỡi voi nhằm hướng mặt trời lặn đi mải miết. Trên đường đi, Dông gặp một người cao lớn phi thường , gánh hai bó củi to như hai cái chòi. Thấy Dông hỏi thăm đường, người ấy lắc đầu bảo:
 - Nhà ngươi bé tí tẹo thế kia thì đến đó làm chi cho uổng mạng.
 Dông nằn nĩ mãi, người gánh củi đành chỉ đường cho chàng, rồi gánh củi chạy như bay xuống núi.
 Bỗng nhiên con voi Dông đang cưỡi rống lên. Dông giật mình nhìn lên, thấy một lão khổng lồ mặt mũi dữ tợn. Lão cười vang như sấm và xông vào định bắt Dông. Dông vội phóng lao đâm lão tới tấp. Hai người quần nhau cho đến tối. Dông dần dần kiệt sức, chàng cho voi chạy tạt vào rừng, rồi cứ nằm thiêm thiếp trên lưng con vật, mặc cho nó đi đâu thì đi. 
 Con voi khôn ngoan cứ luồn rừng đi mãi, cho đến khi gặp một cái chòi bỏ không giữa rừng già. Nó dùng vòi đỡ Dông nằm xuống chòi rồi đi tìm suối lấy nước. 
 Dông vẫn nửa tỉnh nửa mê. Trong lúc chập chờn, Dông thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, trên vai có một con chim lạ bước vào chòi.
 Cụ già đỡ chàng dậy và nói:
 - Ta là thần núi Chư Lây. Ta biết con rất dũng cảm, nhưng tài và sức con chưa thắng được quỷ đâu. Ta đã biến thành người đốn củi để chỉ đường cho con. Ta cũng đã biến thành người khổng lồ để thử sức con Con phải ở lại nơi này ba mùa rẫy nữa. Con gieo hạt giống quý này xuống đất rừng và mỗi ngày phải gùi nước về tưới cho nó đủ bảy lần.
 Dông tỉnh dậy và làm theo lời thần dặn. Hôm sau, một chồi cây mập mạp vươn lên. Sau ba mùa rẫy, thân cây đã to hàng trăm người ôm, ngọn cây đã vươn tới tận trời xanh. Bóng mát của nó trùm kín bảy núi chín đồi.
 Dông cũng cao lớn hẳn lên. Chân tay chàng cứng như gốc lim, gốc sến. Chàng giết hổ dữ như giết con giun con dế. Mũi lao chàng phóng đi xa qua bảy núi chín đồi 
 Đêm hôm ấy, thần núi Chư Lây lại hiện ra:
 - Con tập luyện đã đủ tài đủ sức rồi. Ngày mai con hạ cây quý xuống, chọn khúc to nhất để đẽo một chiếc khiên, đào gốc lên để lấy một thanh gươm báu. Ta cho con thêm một con ngựa trắng và một quả bầu khô. Khi nào gặp nguy cấp, con hãy cho miệng quả bầu ngửa lên trời, nó sẽ có phép màu giúp con. 
 Thần núi nói rồi lấy đầu gậy khẽ chạm vào con chim đang đậu trên vai. Nó rùng mình biến thành một con ngựa trắng như tuyết, cao to sừng sững. 
 Dông mừng quá, vội quỳ xuống lạy tạ thần núi. 
 Chàng trai đẽo xong khiên lớn, đào được gươm báu vội lên ngựa tìm đến hang quỷ. 
 Con ngựa tung vó phóng như bay, trong chớp mắt nó đã tới một hang lớn ở trên đỉnh núi cao ngất. Trước cửa hang xương người chất thành đống cao như mái nhà rông. 
 Nghe tiếng động và ngửi thấy mùi lạ, côn quỷ trong hang nhảy ra:
 - Mày đen đủi xấu xí thế kia dẫn xác đến đây làm gì! Cút ngay đi kẻo bẩn mắt ta.
 Dông thét lớn:
 - Ta đến đây để giết mi!
 Quỷ và người đánh nhau bảy ngày bảy đêm chưa phaab thắng bại khiến núi rừng rung chuyển như muốn sập xuống.
 Thấy khó thắng được Dông, quỷ cái liền giơ gương thần ra. Nhưng nhờ có khiên quý, gươm báu và ngựa thần nên Dông chẳng hề hấn gì. 
 Cuối cùng quỷ giơ gương thần lên trời quay ba vòng. Lập tức những đám lửa đỏ rực, từ trên cao ào ào lao xuống. Nhớ lời thần núi, Dông vội lấy quả bầu khô ra. Từ trong quả bầu, một làn khói đặc tuôn ra thành màng mỏng như tấm lụa đào dâng lên, gói chặt biển lửa của quỷ lại.
 Quỷ cái hết phép, định quay đầu chạy trốn, Dông thúc ngựa lao tới, vung gươm báu lên, khiến đầu quỷ dữ lăn lông lốc xuống khe núi. Chiếc gương thần cũng văng theo, vỡ tan ra từng mảnh.
 Dông sung sướng ôm chầm lấy anh, miệng cười mà nước mắt lăn dài trên má. Rồi hai anh lên ngựa bay về buôn cũ. Vừa đến nơi, con ngựa rùng mình hóa thành con chim trắng bay về núi Chư Lây.
 Dân làng mổ heo, giết trâu mở hội ăn mừng Pha đã trở về, mừng Dông đã diệt trừ được quỷ ác. Tiếng cồng , chiêng vang xa suốt ngày đêm ca ngợi Đam Dông, người con dũng mãnh của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ. 
 Theo truyện dân gian Việt Nam.
Câu chuyện: 
 SỰ TÍCH HOA DẠ HƯƠNG
 Xưa có một người đàn bà nghèo sống bàng nghề trồng rau ở ven sông. Một hôm, bà lão nghĩ: “Ước gì ta có một mụn con cho vui cửa vui nhà.”
 Sáng hôm sau, khi ra vườn, bà nhìn thấy một cái bọc, bên trong có một bé gái xinh xắn. Bà chắp tay cảm tạ Trời Phật rồi bế cô bé vào nhà, lòng mừng vui khôn xiết. Từ đó, bà nhận cô bé làm con nuôi và thương yêu cô bé hết lòng. Bà nhường đồ ăn, thức uống và quần áo đẹp cho cô, còn bà chỉ ăn khoai sắn và mặc quần áo cũ.
 Nhưng bà rất vui vì có cô con gái xinh đẹp. Dân làng ai cũng trầm trồ khen cô bé. Thấy vậy, cô bé sinh ra kiêu căng và lười nhác.
 Một buổi sáng, ông Mặt Trời đã lên cao mà cô bé vẫn ngủ. Chú Ong Vàng đến đậu bên cửa sổ khẽ nhắc:
 - Cô bé ơi! Nắng sớm lên rồi! Hãy dậy và ra vườn tưới rau giúp mẹ! 
 Cô bé uể oải vươn vai gắt gỏng: 
 - Ong Vàng đi đi! Nếu ta xách nước tưới rau thì bàn tay ngọc ngà của ta sẽ bị chai cứng mất.
 Nghe vậy, Ong Vàng liền bay đi. Buổi chiều Ong Vàng lại bay đến cửa sổ. Thấy cô bé đang ngồi soi gương, chải tóc, Ong Vàng nhắc:
 - Cô bé ơi! Mẹ sắp về rồi! Hãy quét nhà nấu cơm giúp mẹ đi!
 Cô bé đáp:
 - Quét nhà, nấu cơm thì bẩn mất cái váy trắng của ta. Khi mẹ ta về , mẹ chỉ nấu một lát là xong.
 Nói rồi, cô bé lại ngồi soi gương, chải tóc. Nhưng trời tối rồi mà mẹ vẫn chưa về. Cô bé thấy đói bụng. Rồi đêm xuống. Ngồi một mình trong căn nhà vắng lặng, bụng đói cồn cào, cô bé ôm mặt khóc.
 Ba ngày trôi qua, bà mẹ vẫn chưa về. Cô bé soi gương thì thấy mặt mũi hốc hác, hai mắt thâm quầng, nước da nhợt nhạt. Lúc này cô mới hiểu rằng sắc đẹp của cô có được là nhờ sự chăm chút và tình yêu thương của người mẹ già. Cô thương mẹ quá Đúng lúc ấy, Ong Vàng bay ngang qua và nói:
 - Mẹ già yếu đã mất rồi. Cô bé hãy tự làm việc để kiếm ăn! 
 Cô bé òa khóc, chạy ra vườn, nhưng Ong Vàng đã bay xa. Cô vừa thương mẹ, vừa ân hận nên cứ đứng đó khóc mãi.
 Về sau, dân làng không trông thấy cô bé đâu nữa mà chỉ thấy trong khu vườn của nhà bà lão mọc lên một bụi cây nhỏ nở những chùm hoa màu trắng xanh. Đêm đêm, những chùm hoa ấy tỏa hương thơm ngào ngạt. Người ta bảo rằng, ấy là tấm lòng của đứa con thương mẹ nhưng đã muộn màng và đặt tên cho loài hoa ấy là Dạ Hương – Thứ hoa chỉ tỏa hương thơm vào những đêm thanh vắng.
 Theo Thu Thủy 

Tài liệu đính kèm:

  • docNHUNG BAI VAN CHON LOC.doc