Sáng kiến kinh nghiệm Áp dụng dạy học tích cực để rèn luyện kỹ năng thực hành phép nhân cho học sinh Lớp 3

Sáng kiến kinh nghiệm Áp dụng dạy học tích cực để rèn luyện kỹ năng thực hành phép nhân cho học sinh Lớp 3

I.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1.Xuất phát từ vị trí và tầm quan trọng của dạy phép nhân trong việc dạy môn Toán trong tiểu học.

 Việc dạy học ở các trường tiểu học nước ta có một quá trình phát triển lâu.Chương trình môn Toán ở bậc Tiểu học gồm có 5 tuyến kiến thức chính là: Số đại số, các yếu tố hình học, đo các đại lượng, giải toán.Trong đó số lớn nhất trọng tâm đóng vai trò “cái trục chính” mà bốn mạch chuyển động chung quanh nó, phụ thuộc vào nó.Các biện pháp tính, của phép nhân và dãy tính.Trong ba mảng kiến thức này thì mảng các biện pháp tính là quan trọng nhất, đặc biệt là việc rèn luyện kỹ năng thực hành phép nhân , chia đóng vai trò hết sức chủ đạo, nó là trọng tâm của tuyến kiến thức số học, đại số và là hạt nhân của toàn bộ chương trình tiểu học.

 Bắt đầu từ năm 2003-2004, bảng nhân 2, 3, 4, 5 chính thức được đưa vào chương tình Toán lớp hai ở bậc tiểu học.Nói như vậy thấy tầm quan trọng và vai trò của phép nhân trong môn Toán.Trong các kỳ thi môn Toán của lớp 2, 3, 4, 5 đặc biệt là thi học sinh giỏi bậc tiểu học luôn xuất hiện các bài toán có liên quan đến phép tính nhân.Vì vậy tính nhân, chính là “ chìa khoá “ và “ cầu nối” giữa toán học và thực tiễn đời sống.Nó chiếm vị trí rất quan trọng trong chương trình môn toán lớp 3 và môn toán tiểu học nói chung nhất là về mặt thực hành tính toán.

2.Xuất phát từ nhu cầu đặt ra trong công cuộc đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới dạy học môn toán ở tiểu học nói riêng.

 Công cuộc đổi mới kinh tế, xã hội đang diễn ra từng ngày từng giờ trên khắp đất nước.Nó đòi hỏi phải có những lớp người lao động mới có bản lĩnh, có năng lực, chủ động sáng tạo, dám nghĩ dám làm, thích ứng được với thực tiễn đời sống xã hội luôn luôn phát triển.Nhu cầu này làm cho mục tiêu đào tạo của nhà trường phải được điều chỉnh một cách hợp lý dẫn đến sự thay đổi tất yếu về nội dung và phương pháp dạy học.

 

doc 41 trang Người đăng lilyphan99 Ngày đăng 06/01/2022 Lượt xem 515Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Áp dụng dạy học tích cực để rèn luyện kỹ năng thực hành phép nhân cho học sinh Lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ÁP DỤNG DẠY HỌC TÍCH CỰC ĐỂ RÈN LUYỆN KỸ NĂNG THỰC HÀNH PHÉP NHÂN CHO HỌC SINH LỚP 3
PHẦN I. MỞ ĐẦU
I.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.Xuất phát từ vị trí và tầm quan trọng của dạy phép nhân trong việc dạy môn Toán trong tiểu học.
	Việc dạy học ở các trường tiểu học nước ta có một quá trình phát triển lâu.Chương trình môn Toán ở bậc Tiểu học gồm có 5 tuyến kiến thức chính là: Số đại số, các yếu tố hình học, đo các đại lượng, giải toán.Trong đó số lớn nhất trọng tâm đóng vai trò “cái trục chính” mà bốn mạch chuyển động chung quanh nó, phụ thuộc vào nó.Các biện pháp tính, của phép nhân và dãy tính.Trong ba mảng kiến thức này thì mảng các biện pháp tính là quan trọng nhất, đặc biệt là việc rèn luyện kỹ năng thực hành phép nhân , chia đóng vai trò hết sức chủ đạo, nó là trọng tâm của tuyến kiến thức số học, đại số và là hạt nhân của toàn bộ chương trình tiểu học.
	 Bắt đầu từ năm 2003-2004, bảng nhân 2, 3, 4, 5 chính thức được đưa vào chương tình Toán lớp hai ở bậc tiểu học.Nói như vậy thấy tầm quan trọng và vai trò của phép nhân trong môn Toán.Trong các kỳ thi môn Toán của lớp 2, 3, 4, 5 đặc biệt là thi học sinh giỏi bậc tiểu học luôn xuất hiện các bài toán có liên quan đến phép tính nhân.Vì vậy tính nhân, chính là “ chìa khoá “ và “ cầu nối” giữa toán học và thực tiễn đời sống.Nó chiếm vị trí rất quan trọng trong chương trình môn toán lớp 3 và môn toán tiểu học nói chung nhất là về mặt thực hành tính toán.
2.Xuất phát từ nhu cầu đặt ra trong công cuộc đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới dạy học môn toán ở tiểu học nói riêng.
	 Công cuộc đổi mới kinh tế, xã hội đang diễn ra từng ngày từng giờ trên khắp đất nước.Nó đòi hỏi phải có những lớp người lao động mới có bản lĩnh, có năng lực, chủ động sáng tạo, dám nghĩ dám làm, thích ứng được với thực tiễn đời sống xã hội luôn luôn phát triển.Nhu cầu này làm cho mục tiêu đào tạo của nhà trường phải được điều chỉnh một cách hợp lý dẫn đến sự thay đổi tất yếu về nội dung và phương pháp dạy học.
	Đặc điểm của phương pháp dạy học cũ là có sự mất cân đối rõ rệt giữa hoạt động dạy của giáo dục và hoạt động của học sinh.Trong đó:Giáo viên thường chỉ truyền đạt, giảng giải các tài liệu đã có sẵn trong sách giáo khoa, sách giáo viên (hướng dẫn giảng dạy).Vì vậy giáo viên thường làm việc một cách máy móc và ít quan tâm đến việc phát huy khả năng sáng tạo của học sinh.Học sinh học tập một cách thụ động, chủ yếu chỉ nghe giảng ghi nhớ rồi làm theo bài mẫu.Do đó học sinh ít có hứng thú học tập, nội dung các hoạt động học tập thường rất nghèo nàn, đơn điệu, các năng lực vốn có của học sinh ít có cơ hội phát triển.Giáo viên là người duy nhất có quyền đánh giá kết quả học tập của học sinh. Học sinh ít khi được tự đánh giá mình và đánh giá lẫn nhau.Tiêu chuẩn đánh giá học sinh là kết quả ghi nhớ, tái hiện những điều giáo viên đã giảng.Cách dạy học như vậy đang cản trở việc đào tạo những người lao động năng động, tự tin, linh hoạt, sáng tạo, sẵn sàng với những đổi mới đang diễn ra hàng ngày. Do đó chúng ta phải có cố gắng đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước trong thế kỷ XXI.
3.Xuất phát từ thực trạng việc dạy học môn toán cụ thể là kỹ năng thực hành phép nhân cho học sinh lớp 3 trong nhà trường Tiểu học hiện nay.
	Trong chương trình môn học ở bậc tiểu học, môn toán chiếm số giờ rất lớn. Bốn phép tính cộng, trừ, nhân , chia được sử dụng hầu hết vào các khâu trong quá trình dạy học toán.Tuy vậy, phép nhân, phép chia là khái niệm trừu tượng.Vì vậy việc nâng cao hiệu quả rèn luyện kỹ năng thực hành phép nhân, phép chia là một vấn đề cấp bách và thường xuyên.
	Một trong những mục tiêu của môn Toán của bậc tiểu học là hình thành các kỹ năng thực hành tính toán.Bởi vậy, ngay từ lớp 2, học sinh đã được làm quen với bảng nhân với 2, 3, 4, 5 trong phạm vi 100.Sang lớp ba, học sinh học bảng nhân với 6, 7, 8, 9 và nhân chia ngoài bảng trong phạm vi1.000.000 (với số có một chữ số).Việc rèn luyện các kỹ năng thực hành phép nhân giúp cho học sinh nắm chắc một số tính chất cơ bản của các phép tính viết, thứ tự thực hiện các phép tính trong các biểu thức có nhiều phép tính , mối quan hệ giữa các phép tính (đặc biệt giữa phép cộng và phép nhân, phép nhân và phép chia).Đồng thời dạy học phép nhân , phép chia tên tập hợp số tự nhiên nhằm củng cố các kiến thức có liên quan đến môn toán như đại lượng và phép đi đại lượng các yếu tố hình học, giải toán. Ngoài ra rèn kỹ năng thực hành phép nhân, phép chia con góp phần trọng yếu trong việc phát triển năng lực tư duy, năng lực thực hành, đặc biệt là khả năng phân tích, suy luận lôgíc và phẩm chất không thể thiếu được của người lao động mới.
	Xuất phát từ những lý do thực tế trên, qua nghiên cứu quá trình dạy học môn toán lớp 3 ở bậc tiểu học, là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy, kết hợp với những hiểu biết đã có và những điều mới mẻ lĩnh hội được từ các bại giảng về “phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học” , trong khuôn khổ cho phép của một đề tài khoa học, tôi quyết định chọn đề tài:
	“Áp dụng dạy học tích cực để rèn kỹ năng thực hành phép nhân cho học sinh lớp 3”
II.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
	Đề tài nhằm:
Tìm hiểu những vấn đề lí luận về đổi mới dạy học tích cực nói chung và dạy học tích cực trong môn Toán nói riêng.
Vận dụng dạy học tích cực để thiết kế bài dạy để rèn luyện kỹ năng thực hành phép nhân góp phần nâng cao chất lượng dạy và học Toán Tiểu học nói chung và lớp 3 nói riêng.
Đề tài này biểu hiện kết quả tự học, tự rèn luyện nâng cao tay nghề của bản thân, tôi rất mong nhận được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp, quý thầy cô của trường Đại học Sư phạm để đổi mới , nâng cao hiệu quả dạy học rèn luyện kỹ năng thực hành phép nhân, phép chia cho học sinh lớp 3.
III.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc các tài liệu giáo trình có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.Tham khảo sáng kiến, kinh nghiệm của đồng nghiệp.
Phương pháp quan sát: Thông qua dự giờ.
Phương pháp điều tra: Tìm hiểu thực trạng việc dạy phép nhân lớp 3(chương trình Toán 2000).
Phương pháp thực nghiệm: Kiểm nghiệm tính khả thi của đề tài và tác dụng của những ý kiến đề xuất về rèn kỹ năng thực hành phép nhân, phép chia cho học sinh lớp 3 theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh.
IV.TÓM TẮT NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI
	Ngoài phần mở đầu, phần thực nghiệm và phần kết luận, đề tài gồm có các nội dung chính sau đây:
	chương: Trong chương trình này chúng tôi xin trình bày những vấn đề chung về dạy học tích cực.
	Chương II: Đây là chương chúng tôi xin trình bày về nội dung và phương pháp dạy học tích cực để rèn kỹ năng thực hành phép nhân cho học sinh lớp 3.
	Chương III: Chúng tôi xin nói về thực trạng dạy học phép nhân trong nhà trường Tiểu học hiện nay.
Chương IV: Chúng tôi xin phép được đề xuất một số ý kiến của bản thân và các đồng nghiệp để góp phần nâng cao hiệu quả của giờ dạy Toán nói chung và việc dạy học phép nhân cho học sinh lớp 3 nói riêng.
V.MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
	Trên cơ sở nghiên cứu tài liệu, điều tra, quan sát tình hình thực tế và trực tiếp giảng dạy phép nhân cho học sinh lớp 3 chúng tôi đã nhận được kết quả như sau:
Tìm hiểu những nội dung và phương pháp giảng dạy học cho học sinh lớp 3.
Tìm hiểu, phân tích, tổng hợp chương trình sách giáo khoa Toán 3 và phân loại các bài toán có liên quan đến phép nhân ở lớp 3 thành những dạng cơ bản.
Tìm hiểu một số vấn đề cơ bản về dạy học tích cực để dạy học các nội dung trên.
Từ những kết quả ở phần trên, chúng tôi thiết kế thực nghiệm dạy học 2 tiết học và thu được kết quả đáng khích lệ.
VI.TRIỂN VỌNG NGHIÊN CỨU SAU ĐỀ TÀI
Rèn kỹ năng thực hành phép nhân cho học sinh lớp 3 nói riêng, dạy học Toán ở tiểu học nói chung theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, đáp ứng được mục tiêu của giáo dục hiện đại.
PHẦN II: NỘI DUNG ĐỀ TÀI
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DẠY HỌC TÍCH CỰC
I.Dạy học tích cực là gì ?
	Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã hội.Nhờ có tính tích cực mà con người đã lao động sản xuất sáng tạo ra nhiều của cải vật chất cần thiết cho sự tồn tại, phát triển của xã hội, sáng tạo ra nền văn hoá, cải tạo môi trường, chinh phục thiên nhiên, cải tạo xã hội.
	Bởi vậy hình thành và phát triển tính tích cực xã hội là một trong các nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục nhằm đào tạo những con người năng động thích ứng và góp phần phát triển cộng đồng.Tính tích cực được xem là một điều kiện , đồng thời là một kết quả của sự phát triển nhân cách trong quá trình giáo dục.
1.Tính tích cực của học sinh trong học tập:
	Tính tích cực của con người được biểu hiện trong hoạt động, đặc biệt trong những hoạt động chủ động của chủ thể. Học tập là hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi đi học.Tính tích cực trong hoạt động học tập tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.
	Khác với quá trình nhận thức trong nghiên cứu khoa học, quá trình nhận thức trong học tập không nhằm phát hiện những điều loài người chưa biết mà nhằm lĩnh hội những tri thức mà loài người đã tích luỹ được.Tuy nhiên, trong học tập, học sinh cũng phải khám phá ra những gì đã nắm được qua hoạt động chủ động, nỗ lực của chính mình.Đó là chưa nói lên tới một trình độ nhất định sự học tập tích cực sẽ mang tính nghiên cứu khoa học và người học cũng làm ra những tri thức mới cho khoa học.
	Tính tích cực nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trước hết với động cơ học tập. Động cơ có đúng đắn tạo ra hứng thú.Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là 2 yếu tố tạo nên tính tích cực.Tính tích cực sản sinh tư duy độc lập suy nghĩ, độc lập suy nghĩ là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú, bồi dưỡng động cơ học tập.
	Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra, hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa rõ, không chủ động vận dụng kiến thức kỹ năng đã học, kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản trước những tình huống khó khăn.
	Tính tích cực học tập đạt những cấp độ từ thấp lên cao như:
Bắt chước: gắng sức làm theo các mẫu hoạt động của thầy, của bạn...
Tìm tòi: Độc lập giải quyết các vấ ... g ưu điểm trên thì việc dạy học phép nhân, chia của giáo viên còn một số điểm tồn tại sau đây:
	Bên cạnh một số đông giáo viên đã tích cực thay đổi phương pháp dạy học, không tránh khỏi một số đồng chí còn làm việc rất khuôn mẫu theo sách hướng dẫn, sách giáo khoa.Giáo viên chỉ chú ý sao cho học sinh giải được bài toán cụ thể trong sách giáo khoa chứ chưa chú ý đến việc phát triển đề toán thành các bài toán tương tự bằng việc yêu cầu học sinh thay đổi số liệu để giúp học sinh nắm vững dạng toán đồng thời giúp cho các em phát triển năng lực tư duy.Đa số học sinh đều nắm vững kỹ thuật tính nhân nên đối với dạng bài tập “Đặt tính rồi tính, tính giá trị biểu thức” học sinh làm tốt.Thế nhưng với những dạng bài tập cần suy luận hay cần dựa vào mối quan hệ giữa các phép tính, dựa vào các tính chất của phép nhân để giải thì học sinh làm chưa tốt.Đây cũng là lỗi do sự lạm dụng sách giáo khoa và vở bài tập nên học sinh thường làm việc như một cái máy.Bài nào khác dạng đi một chút là không làm được phải hỏi ý kiến của giáo viên.
II.VỀ PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
1.Những ưu điểm
	Qua điều tra và trực tiếp giảng dạy ở lớp 3, chúng tôi thấy học sinh làm tốt các bài tập về phép nhân trong sách giáo khoa.Kết quả đạt được là cao, song đối với các bài toán có yêu cầu nâng cao hơn, các em vẫn lúng túng.Đây là điều dễ hiểu vì mức độ yêu cầu của các bài toán trong sách giáo khoa khá đơn giản trong khi thực tế hàng ngày có những bài toán không phải là dễ.
2.Những mặt còn tồn tại
	- Bắt nguồn từ phía sách giáo khoa, với nội dung bài tập và mức độ yêu cầu chưa cao nên việc khắc sâu, củng cố các dạng toán chưa thật hiệu quả, tư duy của học sinh chưa được chú ý đúng mức.Bởi thế các em sẽ gặp nhiều khó khăn khi gặp các bài tập nâng cao hoặc những bài Toán diễn ra trong thực tế hàng ngày.
	- Bắt nguồn từ phía giáo viên, một số đông chí còn mang nặng dạy học theo phương pháp cổ truyền nên học sinh tiếp nhận kiến thức giải các bài toán riêng lẻ mà chưa có phương pháp tổng quát để áp dụng cho các bài toán khác nhau.
CHƯƠNG IV
MỘT SỐ Ý KIÊN ĐỀ XUẤT CỦA CÁ NHÂN
1.Như trên đã nói, chương trình Tiểu học hiện nay đang có xu hướng giảm tải kiến thức, đó là điều hợp lý.Song trong bất kỳ một lớp học nào cũng có đầy đủ các đối tượng học sinh: Giỏi, khá, trung bình, yếu, trong đó số học sinh khá giỏi là chủ yếu, nên chăng sách giáo khoa cần tăng cường những bài toán có yêu cầu cao hơn đối với học sinh khá giỏi ?
2.Mỗi bài dạy của giáo viên trên lớp có một đặc điểm riêng, đặc trưng riêng: Bởi thế giáo viên phải chú ý đến những đặc trưng này thì mới có thể có những bài dạy tốt.
Khi dạy các tiết lý thuyết, giáo viên cần đặt mình vào vị trí của những học sinh.Điều quen thuộc của thầy giáo có thể lại là điều hết sức mới mẻ đối với trò.Tuy nhiên không một kiến thức mới nào lại không khởi nguồn từ những điều các em đã biết, bởi cái mới luôn là sự kế thừa của cái đã có trước đó.Hãy dựa vào những gì đã có để xây dựng tình huống có vấn đề làm xuất hiện ở học sinh nhu cầu tìm hiểu kiến thức mới.Không nên dạy theo cách truyền dạt kiến thức một chiều mà hãy suy nghĩ để có những gợi ý, những câu hỏi hợp lý lôi cuốn học sinh tham gia vào bài học.Nên tăng cường những câu hỏi mà học sinh phải phán đoán, suy luận, lựa chọn và giải thích.Khi học sinh trả lời, đừng bỏ qua câu trả lời, nhiều khi chính những câu trả lời đó lại là một hướng để ta khai thác bài học.Nếu có thể hãy hướng dẫn cho mọi học sinh tranh luận với nhau mà thầy giáo là trọng tài.Mọi kiến thức đều sẽ bị lãng quên nếu chúng không được sử dụng.Vì vậy vừa giảng vừa luyện tập và cuối cùng đừng quên củng cố nội dung trước khi sang một phần mới.
Sau bất cứ bài học lý thuyết nào cũng có bài học để học sinh luyện tập vận dụng kiến thức đã học.Một số giáo viên biến giờ luyện tập thành giờ chữa bài tập, đây là một sai lầm.Tiết luyện tập tốt là tiết dạy học sinh cách suy nghĩ giải toán.Khi dạy các tiết luyện tập chúng ta không nên đưa quá nhiều bài tập chỉ nên đưa ra khối lượng bài tập, chỉ nên đưa ra khối lượng vừa đủ để có điều kiện khắc sâu, củng cố các kiến thức được vận dụng và phát triển năng lực tư duy cần thiết trong giải toán.Hãy liên kết các bài tập thành từng nhóm bài có liên quan và giúp học sinh tìm ra đặc trưng của nhóm bài cũng như sự khác nhau giữa các nhóm.Đừng nóng vội mà hãy để thời gian cho học sinh suy nghĩ, tìm tòi và giúp đỡ các em khai thác bài toán trên những phương diện khác nhau.
Tiếp theo là với tiết ôn tập.Trong tiết này chúng ta hãy cố gắng tìm được sự liên kết các kiến thức ấy với nhau đồng thời chọn ra những bài tập có tính tổng hợp liên quan nhiều đến kiến thức để qua đó mà củng cố, khắc sâu mà nâng cao kiến thức cho học sinh.
Vận dụng nhiều hình thức kiểm tra khác nhau để đánh giá tình hình học tập của học sinh.
3.Dạy học là một nghệ thuật, nghệ thuật ấy đạt đến đỉnh cao khi người thầy dạy cho học sinh biết cách học một cách sáng tạo.Muốn vậy phải khai thác tiềm năng học toán của các em.Hãy hướng dẫn các em nghiên cứu bài học bằng cách xem trước bài và ghi lại những thắc mắc, những điều chưa lý giải được để đến lớp với những câu hỏi có sẵn trong đầu.
Toán học là một môn thể thao trí tuệ.Giáo viên hãy tổ chức cho các em “chơi” một cách sáng tạo, để tìm ra những điều lý thú trong đó .Như vậy có nghĩa là mỗi bài chúng ta không nên dừng lại ở việc tính ra kết quả, tìm ra đáp số mà còn yêu cầu học sinh suy nghĩ tìm tòi các cách giải khác nhau.
Ví dụ như bài toán sau:
Tìm một số biết rằng số đó nhân với 4 được bao nhiêu đem cộng với 4 thì được kết quả cuối cùng là 7744.
Cách giải thứ nhất: Gọi số cần tìm là X
	Theo đầu bài, ta có
X x 4 + 4 = 7744
	 X x 4 = 7744 – 4
	 X x 4 = 7740
	 X = 7740 : 4
	 X = 1935
Cách giải thứ hai:
	Áp dụng phương pháp giải từ cuối ta có lời giải như sau:
	Trước hết ta lập hồ sơ diễn đạt bài toán dưới dạng
	x 4	 + 4
7744
	: 4	 - 4 
Số trước khi cộng với 4 là
	7744 – 4 = 7740
	Số cần tìm là
	7744 : 4 = 1935
	Vậy số cần tìm là 1935
	Qua hai cách giải khác nhau giáo viên cho học sinh có thể so sánh để thấy được cách giải nào hay, dễ hiểu hơn.Học sinh dễ dàng thấy cách giải thứ hai là hay hơn với bài toán này.
	Như vậy chúng ta thấy rằng từ một bài toán, chúng ta đã giúp đỡ học sinh tìm ra nhiều điều lý thú, góp phần tích cực trong việc tạo hứng thú và phát triển tư duy cho học sinh.
PHẦN III. THỰC NGHIỆM
I.Mục đích thực nghiệm:
	Xuất phát từ mục đích nghiên cứu của đề tài là áp dụng dạy học tích cực để rèn kỹ năng thực hành phép nhân cho học sinh lớp 3 chương trình Toán xuất phát từ thực trạng dạy phép nhân và từ những đề xuất đã nêu ra, chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm để kiểm nghiệm tính khả thi của đề tài, sự hiệu quả của các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, cũng như giúp học sinh tính nhân, chia chính xác, biết suy nghĩ tìm tòi phát triển trước những đề Toán gặp phải.
II.Nội dung thực nghiệm:
	Chúng tôi đã tiến hành dạy 2 tiết thực nghiệm.
	Tiết 1: Nhân số có bốn chữ số với số có một chữ số (Tiết 113) 
	Tiết 2: Luyện tập (Tiết 114)
III.Hình thức – Phương pháp tổ chức thực nghiệm
	Trong 2 giờ dạy thực nghiệm, chúng tôi đã sử dụng các hình thức tổ chức, phương pháp sau đây:
Phương pháp vấn đáp – gợi mở.
Phương pháp thực hành luyện tập.
Phương pháp dạy học nêu vấn đề.
Các hình thức tổ chức dạy học đã được sử dụng:
Dạy học theo lớp.
Dạy học theo nhóm.
Dạy học bằng phiếu học tập.
Tổ chức trò chơi học tập.
IV.Thời gian và địa điểm thực nghiệm:
Địa điểm: Lớp 3B Trường Tiểu học Cát Linh.
Thời gian dạy: 
Tiết 1: Từ 14 giờ cho đến 14 giờ 35 phút ngày 18-5-2006.
Tiết 2: Từ 14 giờ cho đến 14 giờ 35 phút ngày 25-5-2006.
V.Kết quả thực nghiệm:
	Căn cứ vào tiến trình dạy, kết quả thu và chấm bài của học sinh cho thấy.Đa số học sinh đều tiếp thu tốt, hiểu bài và vận dụng nhanh, thực hiện phép tính tốt, trình bày khoa học, sạch đẹp.
Kết quả như sau:
	Tổng số học sinh:	Học sinh
 Loại điểm
Tiết dạy 
Điểm 9- 10
Điểm 7-8
Điểm 5-6
Điểm dưới 5
Số bài
Tỉ lệ
Số bài
Tỉ lệ
Số bài
Tỉ lệ
Số bài
Tỉ lệ
Tiết 1
Tiết 2
PHẦN IV. KẾT LUẬN
I.NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA CHO BẢN THÂN VÀ CHO ĐỒNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH LÀM ĐỀ TÀI
	Trong quá trình làm đề tài: “Áp dụng dạy học tích cực để rèn luyện kỹ năng thực hành phép nhân cho học sinh lớp 3”, tôi đã học và tìm hiểu nội dung dạy học phép nhân cho học sinh lớp 3; các phương pháp dạy học tích cực để dạy nội dung này.Điều này rất có ích cho tôi trong công tác dạy học.Bản thân tôi rút ra được một kinh nghiệm như sau:
	Muốn dạy tốt môn Toán, giúp học sinh hiểu, làm tốt các bài tập, trước hết giáo viên phải hiểu và nắm chắc các kiến thức và kỹ năng dạy các biện pháp tính đồng thời phải biết hướng khai thác để giúp trẻ phát triển tư duy sáng tạo trong học Toán.Giáo viên không nắm vững nội dung dạy học khi lên lớp sẽ lúng túng, hướng dấn học sinh không mạch lạc làm cho hoạt động suy nghĩ của các em luẩn quẩn và gây mất niềm tin ở các em.
	Muốn có giờ dạy học tốt, giáo viên phải thực sự có lòng yêu nghề mến trẻ, không ngại khó, ngại khổ mà phải đào sâu suy nghĩ, tích cực sáng tạo, tìm tòi cái mới để dạy.Có được như vậy mới tất yếu bài giảng sẽ thành công.
	Để đảm bảo mục tiêu của giáo viên hiện đại, trong quá trình dạy học người giáo viên cần phải dạy cho học sinh các kỹ năng quan sát, phân tích, đặt vấn đề và lập kế hoạch giải quyết vấn đề, rèn cho học sinh tính kiên nhẫn, tinh thần say mê dưới sự gợi mở của thầy.
	Trong đánh giá, việc chấm tay đôi với học sinh hoặc để cho học sinh tự chấm bài mình, được chấm bài bạn là một điều hết sức quan trọng.
	Trong quá trình ấy người giáo viên sẽ trực tiếp chỉ ra cho học sinh được cái hay, cái được trong khi làm các bài tập toán.Đồng thời cũng là cơ hội để các em tự đánh giá nhận xét kết quả làm việc của mình, của bạn.Dùng điểm số để khuyến khích sáng tạo, tích cực của học sinh.
	Dạy học là một nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý.Chính vì vậy, trong dạy học người giáo viên phải luôn luôn tôn trọng nhân cách của trẻ, không được gây ức chế cho học sinh bởi nếu có thì sẽ không bao giờ phát triển hết khả năng và sức sáng tạo của các em.Hãy giữ gìn tâm sự để trở thành người bạn lớn mà các em có thể chia sẻ mọi vấn đề trong học tập và trong cuộc sống.
II.Triển vọng nghiên cứu sau đề tài
	Kết quả sau đề tài có thể được sử dụng để nghiên cứu dạy học các phép tính nhân nói chung trong sách Toán lớp 3.

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn L3 ap dung dh tich cuc de ren luyen ko nang thuc hanh phep nhano l3.doc