Sáng kiến kinh nghiệm Bồi dưỡng học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức môn toán lớp 4

Sáng kiến kinh nghiệm Bồi dưỡng học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức môn toán lớp 4

- Trong điều kiện xã hội hiện nay sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin đề ra những yêu cầu ngày càng cao đối với trình độ văn hóa chung của thế hệ trẻ. Đặc biệt trong thời đại ngày nay vấn đề phổ cập giáo dục đang được toàn xã hội quan tâm và trở thành quốc sách hàng đầu. Năm học 2009-2010 được xác định là năm học “Năm học đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục”. Giáo dục bậc Tiểu học có vị trí và ý nghĩa vô cùng quan trọng vì nó là cấp học nền móng của học vấn phổ thông. Mục tiêu của giáo dục tiểu học là nhằm phát triển toàn diện nhân cách học sinh và giáo dục các em trở thành con người của thế hệ mới. Vì vậy đòi hỏi các em phải có một hệ thống kiến thức Toán học cơ bản.

- Các môn ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam nhưng môn Toán là một trong những môn học có vị trí rất quan trọng. Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống, giúp học sinh nhận biết mối quan hệ về số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực. Ngoài ra môn Toán còn góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo góp phần vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của con người như: cần cù, cẩn thận, có ý chí vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch, nề nếp và tác phong khoa học.

 Song trong thực tiễn giảng dạy học sinh yếu là một trong những vấn đề trăn trở của rất nhiều giáo viên tâm huyết nói riêng và ngành giáo dục nói chung. Một số giáo viên còn nhận thức chưa sâu sắc về cuộc vận động “Hai không” với 4 nội dung của ngành GD&ĐT hoặc có thái độ thờ ơ, vô cảm trước tình hình học tập yếu kém của học sinh.

 

doc 7 trang Người đăng haiphuong68 Lượt xem 639Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Bồi dưỡng học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức môn toán lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài.
II. Đối tượng và khách thể.
B. NỘI DUNG
I. Những thuận lợi và khó khăn trong công tác bồi dưỡng học sinh chưa đạt chuẩn môn Toán lớp 4.
II. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học tập cho học sinh chưa đạt chuẩn.
1. Phân loại học sinh yếu kém (môn Toán) ngay từ đầu năm học.
2. Biện pháp tâm lý.
3. Phối hợp chặt chẽ với gia đình.
4. Lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp.
5. Phát động phong trào thi đua học tập trong lớp.
6. Kiểm tra đánh giá mức độ tiến bộ của học sinh theo định kì.
C. KẾT LUẬN
BỒI DƯỠNG HỌC SINH CHƯA ĐẠT CHUẨN KIẾN THỨC 
MÔN TOÁN LỚP 4
A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
- Trong điều kiện xã hội hiện nay sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin đề ra những yêu cầu ngày càng cao đối với trình độ văn hóa chung của thế hệ trẻ. Đặc biệt trong thời đại ngày nay vấn đề phổ cập giáo dục đang được toàn xã hội quan tâm và trở thành quốc sách hàng đầu. Năm học 2009-2010 được xác định là năm học “Năm học đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục”. Giáo dục bậc Tiểu học có vị trí và ý nghĩa vô cùng quan trọng vì nó là cấp học nền móng của học vấn phổ thông. Mục tiêu của giáo dục tiểu học là nhằm phát triển toàn diện nhân cách học sinh và giáo dục các em trở thành con người của thế hệ mới. Vì vậy đòi hỏi các em phải có một hệ thống kiến thức Toán học cơ bản.
- Các môn ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam nhưng môn Toán là một trong những môn học có vị trí rất quan trọng. Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống, giúp học sinh nhận biết mối quan hệ về số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực. Ngoài ra môn Toán còn góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo góp phần vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của con người như: cần cù, cẩn thận, có ý chí vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch, nề nếp và tác phong khoa học.
	Song trong thực tiễn giảng dạy học sinh yếu là một trong những vấn đề trăn trở của rất nhiều giáo viên tâm huyết nói riêng và ngành giáo dục nói chung. Một số giáo viên còn nhận thức chưa sâu sắc về cuộc vận động “Hai không” với 4 nội dung của ngành GD&ĐT hoặc có thái độ thờ ơ, vô cảm trước tình hình học tập yếu kém của học sinh.
Đồng thời do còn thiếu kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh đạt chuẩn nên dẫn đến tình trạng học sinh yếu kém còn nhiều, học sinh sợ học những môn mà học sinh học yếu, .
Trong năm học 2009-2010, tôi được nhà trường phân công giảng dạy và chủ nhiệm lớp 4A. Qua thực tế giảng dạy tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm về công tác bồi dưỡng học sinh đạt chuẩn nói chung và Bồi dưỡng học sinh chưa đạt chuẩn môn Toán lớp 4 nói riêng.
II. Đối tượng và khách thể
1. Đối tượng và khách thể
- Một số biện pháp nâng cao chất lượng học tập cho học sinh chưa đạt chuẩn đối với môn Toán.
- Học sinh đạt chuẩn môn Toán lớp 4.
2. Phạm vi nghiên cứu
- Công tác bồi dưỡng học sinh chưa đạt chuẩn môn Toán lớp 4 trong 1 năm học. 
3. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu các văn bản chuyên môn và thu thập phân tích các tài liệu dạy học có liên quan đến công tác Bồi dưỡng học sinh chưa đạt chuẩn môn Toán lớp 4.
- Khảo sát thực tế:
+ Điều tra thực trạng: Dự giờ, trao đổi ý kiến với phụ huynh học sinh, với ban giám hiệu, tổ chuyên môn, với đồng nghiệp, .
+ Tìm hiểu nguyên nhân vì sao học sinh chưa đạt chuẩn môn Toán.
- Kiểm tra đánh giá: Kiểm tra kết quả học tập của học sinh, thống kê kết quả.
4. Mục đính nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân yếu kém trong học tập của học sinh để tìm ra giải pháp khắc phục.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đưa ra một số giải pháp khắc phục tình trạng học sinh yếu kém.
- Kiểm tra tính khả thi của giải pháp đó.
B. NỘI DUNG
I. Những thuận lợi và khó khăn trong công tác bồi dưỡng học sinh chưa đạt chuẩn môn Toán lớp 4.
1. Thuận lợi
- Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của ngành, của BGH nhà trường về công tác Bồi dưỡng học sinh chưa đạt chuẩn môn Toán lớp 4.
- Phần lớp phụ huynh học sinh quan tâm, lo lắng đến việc học tập của con em mình.
- Giáo viên có nhận thức đúng đắn về nghề dạy học, về cuộc vận động “Hai không”, tâm huyết với nghề.
- Học sinh đi học đúng độ tuổi, được học 2 buổi/ ngày là điều kiện thuận lợi để giáo viên có thời gian kèm cặp học sinh.
- Cơ sở vật chất của nhà trường tương đối đầy đủ tạo điều kiện cho công tác dạy và học.
2. Khó khăn
- Kết quả khảo sát chất lượng học sinh yếu lớp 4A:
+ Năm học 2008-2009: có 2 em yếu môn Toán
+ Năm học 2009-2010: có 6 em yếu môn Toán
	Qua kết quả thực tế trên, tôi đã báo cáo với BGH và tiến hành điều tra, tìm hiểu nguyên nhân. Trong rất nhiều nguyên nhân khiến học sinh học yếu môn Toán cũng như một số môn học khác thì tôi nhận thấy 5 học sinh trên học yếu là do một trong những nguyên nhân sau:
- Nguyên nhân:
a. Nguyên nhân từ phía gia đình: Bố mẹ các em đều là người làm nông nghiệp, trình độ văn hóa thấp nên không kèm được con em mình học ở nhà, chưa thực sự quan tâm đến việc học của con, còn phó mặc cho cô giáo chủ nhiệm. Gia đình có hoàn cảnh khó khăn (2 em).
b. Nguyên nhân từ Giáo viên: Chưa lựa chọn được phương pháp dạy phù hợp. Ảnh hưởng của bệnh thành tích từ nhiều năm trước.
c. Nguyên nhân từ Học sinh: Do lười học, rụt rè, tự ti, sợ học môn Toán, sợ bị gọi lên bảng, không chú ý nghe giảng .
d. Nguyên nhân từ Chương trình: Do kiến thức của lớp 4 “nhảy vọt” so với kiến thức ở các lớp dưới nên nhiều học sinh không theo kịp.
	Sau khi khảo sát chất lượng và tìm hiểu nguyên nhân, tôi tiến hành phân loại đối tượng và tìm biện pháp khắc phục như sau:
II. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học tập cho học sinh chưa đạt chuẩn.
1. Phân loại học sinh yếu kém: ngay từ đầu năm học theo nhóm nguyên nhân và nhóm đối tượng, tìm hiểu cá tính của học sinh. Dưới đây là bảng phân loại đối tượng 5 Học sinh chưa đạt chuẩn môn Toán của lớp tôi phụ trách:
STT
Họ và tên HS
Yếu Toán
Nhóm nguyên nhân
Ghi chú
a
b
c
d
1
Phùng Văn Dáng
x
x
x
x
x
2
Hoàng Xuân Diệu
x
x
x
x
x
Hộ nghèo
3
Hoàng Thị Hằng
x
x
x
x
x
4
Lạc Văn Quang
x
x
x
x
x
Hộ nghèo
5
Hoàng Thị Vinh
x
x
x
x
x
Việc phân loại cụ thể như trên sẽ giúp tôi nắm rõ đối tượng học sinh của mình để từ đó có thể lựa chọn được phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng.
2. Biện pháp tâm lý
Ví dụ: Với những học sinh có cá tính rụt rè, tự ti,  tôi thường xuyên gần gũi, động viên, cố gắng tạo môi trường thân thiện với trẻ để tạo tính tự tin cho trẻ, nếu thường xuyên quát mắng hoặc có thái độ ác cảm với trẻ sẽ khiến trẻ mất bình tĩnh, tự ti, sợ sệt dẫn đến tâm lý không thích đến trường hoặc không thích học môn Toán vì không tập trung được tinh thần để tiếp thu bài học.
	Với học sinh lười học, tôi luôn nghiêm khắc, không buông lỏng quản lý, đã giao việc là phải kiểm tra kết quả. Tôi thường xuyên yêu cầu với những học sinh này là: Nếu em làm hết các bài tập cùng cả lớp thì em được chơi, nếu ngược lại em sẽ không có thời gian chơi như các bạn khác.
	Những cố gắng dù nhỏ của các em tôi cũng đều đưa ra tuyên dương trước lớp để các em phấn khởi tin tưởng vào ngày mai mình sẽ tiến bộ.
3. Phối hợp với gia đình
- Tổ chức họp phụ huynh học sinh để thông báo tình hình học tập của các và đặc biệt thông tin cho gia đình ngay kết quả khảo sát đầu năm cũng như những chuyển biến tích cực của trẻ để gia đình có sự động viên kịp thời, khích lệ con cố gắng vươn lên trong học tập.
- Bên cạnh đó tôi thường xuyên sắp xếp thời gian đến từng nhà để trực tiếp gặp gỡ trao đổi với phụ huynh học sinh, phân tích để phụ huynh thấy được vai trò quan trọng của gia đình đối với sự phát triển tâm lý và tương lai sau này của trẻ. Con cái là tài sản quý giá nhất của cha mẹ, nếu học hành không đến nơi đến chốn thì tương lai sau này của trẻ sẽ như thế nào? Và tôi còn kết hợp hướng dẫn phương pháp kèm con học ở nhà như thế nào cho có hiệu quả.
4. Lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp. (Đây là biện pháp chủ yếu)
Tôi đã thực hiện:
- Lấp lỗ hổng kiến thức cho học sinh vào các tiết ôn luyện buổi chiều trong tuần. Dạy học đi vào từng cá thể học sinh: kèm sát đối tượng từng học sinh trong các giờ học hằng ngày, ngoài ra còn phụ đao thêm ngoài giờ học (2 tiết/ tuần). Học sinh yếu môn nào thì phụ đạo môn đó, không phù đạo chung chung, hình thức, vừa mất thời gian vừa không hiệu quả.
- Đối với môn Toán thông qua các giờ học cùng với sự nhận thức của học sinh qua giờ học, tiết kiểm tra đối với học sinh trung bình-yếu người giáo viên giúp học sinh nhận biết được chỗ nào chưa hiểu (chỗ làm toán sai) bằng cách là: Khi Học sinh lên bảng làm một phép tính hay làm vào vở cũng phải có nháp để làm. Sau khi học sinh đó làm xong (làm chậm hoặc không biết làm) thì giáo viên và học sinh cùng nhận xét bài, kết hợp chỉ trên nháp để học sinh thấy được sai ở đâu và chỗ đó làm như thế nào và nêu cách khắc ngay ở chính chỗ làm nháp đó. Giáo viên lại đưa 1 ví dụ gần giống như thế để học sinh đó dựa vào làm ngay hoặc giao bài về nhà. Cứ như thế dù học sinh làm được ít hoặc còn sai giáo viên và cả lớp cũng động viên khen ngợi, để từ đó giúp học sinh từ học yếu môn Toán, sợ học Toán, sợ bị gọi lên bảng sẽ tự tin hơn vì thấy được sự tiến bộ của chính mình các em sẽ yêu thích môn Toán hơn.
- Xây dựng kiến thức mới phải tường minh phù hợp với đối tượng học sinh. Đôi khi dạy các bài luyện tập thực hành vẫn phải sử dụng phương pháp trực quan cụ thể vì các em là học sinh yếu nhận thức chậm, tư duy trừu tượng kém. Những câu hỏi khó tôi thường chia nhỏ thành những câu hỏi dẫn dắt, gợi mở để dễ hiểu hơn. Một số bài tập tự luận có thể chuyển sang dạng bài chắc nghiệm lựa chọn câu trả lời đúng, sau đó mới quay lại hỏi dạng câu hỏi mở.
5. Phát động phong trào thi đua học tập trong lớp:
- Ngoài phối hợp với các phong trào thi đua của Đội, của trường, của ngành đề ra còn có một số phong trào thi đua trong lớp.
- Không giống Giáo viên ở các cấp học khác người giáo viên Tiểu học vừa phải làm nhiệm vụ giảng dạy vừa chủ nhiệm lớp nên phải chú ý tới cả hai nhiệm vụ trên, nhiệm vụ nào cũng phải làm cho tốt. Hai nhiệm vụ đó nếu làm tốt sẽ tương hỗ cho nhau góp phần nâng cao chất lượng học tập cho học sinh nói chung và học sinh yếu nói riêng. Xác định được điều đó ngoài việc trau dồi về chuyên môn nghiệp vụ tôi luôn chú trọng phong trào thi đua học tập sôi nổi trong học sinh nhằm thu hút sự hưởng ứng của cả lớp nói chung và học sinh yếu nói riêng. Cụ thể với nhiều hình thức khác nhau:
+ Đôi bạn cùng tiến
+ Hái nhiều hoa xung phong
+ ..
Tôi thấy một số hình thức thi đua trên rất có hiệu quả ở lớp tôi. Từ khi phát động thi đua em nào cũng cố gắng học hành chăm chỉ dành được nhiều điểm cao đối với học sinh yếu đã mạnh dạn, tự tin, vui vẻ, hòa nhã, thân thiện với các bạn hơn. Đặc biệt là những học sinh yếu môn Toán đã cố gắng phấn đạt điểm 8 và từ trước tới nay chưa bao giờ dành được.
6. Kiểm tra đánh giá mức độ tiến bộ của học sinh theo định kì.
a. Ra đề kiểm tra
- Cứ ôn luyện sau một tháng hoặc sau một chương tôi lại thiết kế một bài kiểm tra cho học sinh làm ở mức độ vừa sức với các em song vẫn phải đảm bảo chuẩn các kiến thức, kĩ năng theo quy định. Mục đích để các em làm quen với các dạng bài kiểm tra và tập dượt kĩ năng làm bài tập.
b. Nhận xét, đánh giá
- Từ kết quả bài làm của học sinh giúp tôi phát hiện những yếu điểm của học sinh hoặc xem học sinh có tiến bộ hay không để điều chỉnh phương pháp dạy học cho phù hợp với những tiết học sau.
c. Kết quả sau một năm học
STT
Họ và tên HS
Bài kiểm tra
Học lực 
cuối năm
GKI
CKI
GKII
CKII
1
Phùng Văn Dáng
5
6
7
2
Hoàng Xuân Diệu
5
6
7
3
Hoàng Thị Hằng
4
5
6
4
Lạc Văn Quang
4
4
5
5
Hoàng Thị Vinh
5
5
7
Qua bảng tổng hợp tôi thấy học sinh có sự tiến bộ khá rõ rệt sau thời điểm kiểm tra, mong rằng điểm cuối kì II tới này các em cũng sẽ đạt cao. Đó là một kết quả đáng phấn khởi mà những ai làm nghề dạy học như tôi cũng đều mong đợi.
C. KẾT LUẬN
Hiện nay toàn ngành giáo dục đang thực hiện cuộc vận động “Hai không” với 4 nội dung trong đó nội dung “Nói không với học sinh ngồi nhầm lớp” đang là vấn đề cả xã hôi quan tâm.
Nâng cao chất lượng học tập cho học sinh nói chung, cho học sinh yếu kém là cả một quá trình bền bỉ, lâu dài đầy gian nan mà không phải một sớm một chiều có thể cải thiện ngay được, cũng không phải chỉ một mình giáo viên có thể giúp một học sinh yếu kém tiến bộ trong một, hai tuần mà có khi phải hàng tháng, hàng năm cùng với sự hỗ trợ đắc lực của các lực lượng giáo dục khác (gia đình – nhà trường – xã hội) mới nhận thấy sự tiến bộ của học sinh.
Tuy nhiên tôi cũng thấy rằng giáo viên vẫn là người đóng vai trò quan trọng nhất trong việc nâng cao chất lượng học tập cho học sinh yếu kém của lớp mình, những giáo viên thực sự tâm huyết và có trình độ chuyên môn vững vàng, có phương pháp giáo dục tốt thì đạt hiệu quả cao trong công tác Bồi dưỡng học sinh chưa đạt chuẩn góp phần nâng cao chất lượng dạy và học, đáp ứng được yêu cầu trong giai đoạn mới. Tôi cũng mong muốn được đóng góp công sức nhỏ bé của mình vào sự nghiệp chung của toàn ngành trong cuộc vận động “Hai không” do Bộ GD&ĐT phát động.
Trên đây là một sáng kiến kinh nghiệm nhỏ mà tôi đúc rút được qua một năm giảng dạy với mong muốn được trao đổi, chia sẻ với các bạn đồng nghiệp. Rất mong ý kiến đóng góp của cấp trên và các bạn đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Mai Sao, ngày 6 tháng 5 năm 2010
Người viết
Hoàng Thị Mừng
Nhận xét đánh giá của Hội đồng khoa học nhà trường
Nhận xét đánh giá của Hội đồng khoa học Phòng GD&ĐT Chi Lăng

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN boi duong hoc sinh chua dat chuan mon Toan lop 4.doc