Toán học có vị trí rất quan trọng phù hợp với cuộc sống thực tiễn đó cũng là công cụ cần thiết cho các môn học khác và để giúp học sinh nhận thức thế giới xung quanh, để hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn.
Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn toán rất to lớn, nó có khả năng phát triển tư duy lôgic, phát triển trí tuệ. Nó có vai trò to lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề có suy luận, có khoa học toàn diện, chính xác, có nhiều tác dụng phát triển trí thông minh, tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt., góp phần giáo dục ý trí nhẫn nại, ý trí vượt khó của học sinh.
Trong chương trình môn toán tiểu học, giải toán có lời văn giữ một vai trò quan trọng. Thông qua việc giải toán các em thấy được nhiều khái niệm toán học. Như các số, các phép tính, các đại lượng, các yếu tố hình học., trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các sự kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm. Qua việc giải toán đã rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy, tính cẩn thận, óc sáng tạo, cách lập luận bài toán trước khi giải, giúp học sinh vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm, thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng, tư duy để giúp học sinh phát huy những mặt đạt được và khắc phục những mặt thiếu sót.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ------- * * *------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Họ và tên : Lê Ngọc Quyền Năm sinh : 1978 Trình độ chuyên môn: Đại học Chức vụ : Giáo viên Đơn vị công tác: Trường tiểu học Tân Thuận 2 * Tên đề tài: Đổi mới phương pháp giải toán có lời văn ở lớp 4 với dạng: “Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó” I. Lời nói đầu: 1. Lý do chọn đề tài. a. Cơ sở lý luận: Toán học có vị trí rất quan trọng phù hợp với cuộc sống thực tiễn đó cũng là công cụ cần thiết cho các môn học khác và để giúp học sinh nhận thức thế giới xung quanh, để hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn. Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn toán rất to lớn, nó có khả năng phát triển tư duy lôgic, phát triển trí tuệ. Nó có vai trò to lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề có suy luận, có khoa học toàn diện, chính xác, có nhiều tác dụng phát triển trí thông minh, tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt..., góp phần giáo dục ý trí nhẫn nại, ý trí vượt khó của học sinh. Trong chương trình môn toán tiểu học, giải toán có lời văn giữ một vai trò quan trọng. Thông qua việc giải toán các em thấy được nhiều khái niệm toán học. Như các số, các phép tính, các đại lượng, các yếu tố hình học..., trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các sự kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm. Qua việc giải toán đã rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy, tính cẩn thận, óc sáng tạo, cách lập luận bài toán trước khi giải, giúp học sinh vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm, thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng, tư duy để giúp học sinh phát huy những mặt đạt được và khắc phục những mặt thiếu sót. Chính vì vậy việc đổi mới phương pháp dạy toán có lời văn ở cấp tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói riêng là một việc rất cần thiết mà mỗi giáo viên tiểu học cần phải nâng cao chất lượng học toán cho học sinh. b. Cơ sở thực tiển: Trong quá trình dạy học với lòng say mê tìm tòi học tập cộng với sự yêu thích môn toán đã hướng tôi đến với đề tài này. Hơn nữa trong quá trình dạy học tôi thấy phần giải toán có lời văn chiếm thời gian tương đối nhiều của môn toán, nhưng thực tế việc dạy và học giải toán có lời văn vẫn chưa dạt được kết quả cao. Một số học sinh còn chậm, nhút nhát, kĩ năng tóm tắt bài toán còn hạn chế, chưa có thói quen đọc và tìm hiểu kĩ bài toán, dẫn tới thường nhầm lẫn giữa các dạng toán, lựa chọn phép tính còn sai, chưa bám sát vào yêu cầu bài toán để tìm lời giải thích hợp với các phép tính. Kĩ năng tính nhẩm với các phép tính (hàng ngang) và kĩ năng thực hành diễn đạt bằng lời còn hạn chế. Một số em tiếp thu bài một cách thụ động, ghi nhớ bài còn máy móc nên còn chóng quên các dạng bài toán, vì thế phải có phương pháp khắc sâu kiến thức. 2. Sơ lược lịch sử vấn đề: Qua nghiên cứu về toán có lời văn của lớp 4, dự giờ, học hỏi đồng nghiệp, đồng thời điều tra khảo sát việc dạy và học giải toán có lời văn của giáo viên và học sinh lớp 4. Từ đó thấy được những khó khăn vướng mắc của giáo viên và học sinh thông qua các giờ dạy giải toán có lời văn. Tôi đi sâu thống kê thực trạng, tìm nguyên nhân, thể nghiệm những giải pháp cụ thể đối với học sinh lớp 4, nhằm giúp học sinh hiểu rõ tính chất cơ bản và thuật giải toán có lời văn lớp 4 nói riêng và chương trình giải toán có lời văn cấp tiểu học nói chung. 3. Phạm vi đề tài: Qua kết quả học tập về giải toán có lời văn của học sinh từ những năm học trước. Từ đầu năm học 2010-2011, tôi đã chú ý tìm hiểu về khả năng giải toán có lời văn của học sinh, tôi nhận thấy còn không ít em học chưa tốt về dạng toán này. Chính vì thế mà tôi đã đi sâu vào tìm hiểu và mạnh dạn chọn viết sáng kiến kinh nghiệm về "Đổi mới phương pháp dạy giải toán có lời văn ở lớp 4" Với dạng bài toán: "Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó". Đối tượng nghiên cứu của tôi là học sinh lớp 4/3 điểm Ngã Sáu, Trường TH Tân Thuận 2, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang. II. Thực trạng vấn đề Thực trạng tình hình: 1.1/ Thực trạng tình hình giáo viên: Trong giảng dạy, nhắc đến nâng cao chất lượng giảng dạy và dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng các môn học ở tiểu học. Chúng ta phải nghĩ đến việc đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp và có hiệu quả. Việc đổi mới phương pháp dạy các tiết giải toán có lời văn trong chương trình toán lớp 4 nói riêng và trong chương trình toán ở tiểu học nói chung nhằm giúp học sinh vận dụng một cách thành thạo khả năng suy luận, rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận, và những phẩm chất cần thiết chuẩn bị cho việc học toán sau này. Quá trình hình thành và rèn luyện kĩ năng giải toán của học sinh có vai trò quan trọng của giáo viên. Vì chính thầy cô là người hướng dẫn cung cấp những kiến thức, những cách giải, những cách giải mẫu từ đó giúp các em hình thành những kĩ năng giải toán cho bản thân qua quá trình thực hành - luyện tập. Qua trao đổi, trò chuyện với đồng nghiệp cùng trường, tôi nhận thấy tất cả giáo viên đều cho rằng việc đổi mới phương pháp giải toán có lời văn cho học sinh là rất quan trọng. Điều này chứng tỏ giáo viên nhận thức được tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp giải toán có lời văn của học sinh trong quá trình dạy học môn Toán là rất cần thiết vì có thể nâng cao được chất lượng giảng dạy và kết quả học tập của học sinh. Tuy nhiên, nhiều ý kiến vẫn cho rằng không thích dạy giải toán có lời văn cho học sinh so với những phân môn khác với lí do: + Trong giờ toán thường không sôi nổi và khô khan. Học sinh ít chú ý vào bài, mà đối với toán học đòi hỏi tính chính xác cao. + Đồ dùng trực quan ở trường còn ít chưa đáp ứng đủ cho các tiết học, giáo viên phải làm đồ dùng trực quan nhiều để minh hoạ dẫn dắt học sinh nắm bắt kiến thức mới. Ngoài ra còn sử dụng bảng phụ, bảng nhóm ghi các bài tập. - Việc đầu tiên khi tiến hành giải toán là cần đọc kĩ đề bài. Hết sức tránh tình trạng vừa đọc xong là bắt tay vào giải ngay. Ở đây cần lưu ý mấy điểm sau: + Mỗi đề toán bao giờ cũng đều có hai bộ phận : Bộ phận thứ nhất là những điều đã cho, bộ phận thứ hai là cái phải tìm. Muốn giải bất kì bài toán nào học sinh cũng cần phải xác định đúng hai bộ phận đó. + Chúng ta cần tập trung vào những từ quan trọng (từ khóa) của đề toán, từ nào chưa hiểu thì phải tìm hiểu ý nghĩa của nó. Cần hướng dẫn học sinh phân biệt rõ những gì thuộc về bản chất của đề toán, những gì không thuộc về bản chất của đề toán để hướng sự chú ý của mình vào những chỗ cần thiết. - Thường ở dạng toán có lời văn mà đặc biệt là với toán “Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số đó” của hai số thì cách tóm tắt của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành kĩ năng tóm tắt của học sinh. Việc hướng dẫn học sinh tóm tắt đề toán bằng sơ đồ đoạn thẳng thể hiện rõ tỉ số trên sơ đồ của hai số sẽ giúp học sinh có một cái nhìn tổng thể về mối quan hệ giữa các dữ kiện trong bài toán. - Việc hướng dẫn học sinh nghĩ và thiết lập được trình tự các bước giải bài toán dạng này là hết sức quan trọng giúp học sinh thực hiện các phép tính và đi đến kết quả. Mỗi bài giải đều có hai phần: Các câu lời giải và các phép tính. Việc viết câu lời giải phải ngắn gọn và đúng yêu cầu nội dung của bài toán và ứng với một câu lời giải là một phép tính kèm theo. 1.2/ Hứng thú học tập của học sinh: Nhìn chung, đa số học sinh đều nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng giải toán có lời văn. Tuy nhiên việc rèn luyện này chưa được thực hiện một cách nghiêm túc, liên tục và có hệ thống. Học sinh tiểu học khả năng tư duy (phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa) chưa cao mà còn đang hình thành và phát triển. Ở lớp 4, vì bắt đầu làm quen với nhiều dạng toán điển hình, đòi hỏi học sinh phải tư duy nhiều hơn nên nhiều em rất lúng túng trong việc giải toán có lời văn, đặc biệt là toán có lời văn liên quan đến tỉ số. Qua nhiều năm giảng dạy, tôi thấy các em học sinh lớp 4 đã giải được bài toán đơn giản có liên quan đến tỉ số nhưng chỉ sau khi học bài mới xong, còn sau đó thường nhầm sang dạng khác. Điều đó chứng tỏ tư duy của các em còn hạn chế và trí nhớ cũng chưa bền vững (chóng quên) .Còn đối với bài toán nâng cao có một trong hai dữ kiện của bài toán bị “ẩn” thì các em rất khó phát hiện ra dạng toán. Các em chưa biết lập luận để tìm ra dữ kiện bị “ẩn”.Chính vì vậy mà ít em có thể làm được những bài toán nâng cao liên quan đến tỉ số, cụ thể là dạng bài “Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó”. Trong lứa tuổi tiểu học, chú ý không chủ định được phát triển. Những gì mang tính mới mẻ, bất ngờ, rực rỡ, khác thường dễ dàng lối cuốn sự chú ý chủ định của các em, không cần có sự nỗ lực của ý chí. Sự chủ định càng trở nên mạnh mẽ khi giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học đẹp, mới lạ, ít gặp, gợi cho các em cảm xúc tích cực. Nhu cầu, hứng thú có thể kích thích và duy trì được chú ý không chủ định cho nên giáo viên cần lưu ý đặc điểm này để vận dụng trong hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn. Tâm lý hiện nay, việc học về toán có lời văn, các em rất ngại hay nói đúng hơn là sợ do còn chưa nắm vững, chưa xác định được dạng toán. Thời gian tập trung cho việc học phần giải toán có lời văn với dạng “ Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số” còn ít. Do vậy, học sinh không phát triển được năng lực tư duy, tìm tòi sáng tạo trong khi học phần giải toán dạng này, không hình thành được kĩ năng khái quát hóa, trừu tượng hóa của trí lực học sinh. Nhiều em học sinh vẫn bị ảnh hưởng nhiều bởi các từ “ít hơn”, “nhiều hơn”, “gấp bao nhiêu lần”, “kém bao nhiêu lần” trong việc xác định các phép toán tương ứng mà chưa chú ý vào những giả thuyết và các cách diễn đạt khác nhau của cùng một giả thiết. Những hạn chế và khó khăn khi giải quyết vấn đề trong thực tế: Trong quá trình thực hiện nội dung và chương trình sách giáo khoa mới đã nhiều năm, song việc hình thành các phương pháp giảng dạy phù hợp với nội dung chương trình, sách giáo khoa, phù hợp với các đối tượng học sinh vẫn còn nhiều khó khăn, học sinh chưa thực sự đáp ứng được các yêu cầu mà sách giáo khoa mới đã định ra, chưa thích ứng cách học theo sách giáo khoa mới. Giáo viên chưa thực sự là người hướng dẫn thiết kế trong các ... tôi thường hướng dẫn để giúp học sinh ghi nhớ như sau: + Trung bình cộng của hai số là 15 thì tổng của hai số là 152= 30 (Tức là tổng của hai số bằng trung bình cộng của hai số nhân số nhân với 2) + Tổng hai cạnh chiều dài và chiều rộng thì bằng một nửa chu vi hình chữ nhật đó. + Nếu tăng (hay giảm) số này a đơn vị và giảm (hay tăng) số kia a đơn vị thì tổng của hai số sẽ không đổi. + Nếu tăng (hay giảm) một trong hai số a đơn vị thì tổng của hai số sẽ tăng (hay giảm) a đơn vị. + Nếu cả hai số cùng tăng (hay cùng giảm) a đơn vị thì tổng của hai số sẽ tăng (hay giảm) a2 đơn vị + Nếu tăng (hay giảm) số này a đơn vị và giảm (hay tăng) số kia cũng a đơn vị thì tổng của hai số sẽ không thay đổi. c. Đưa ra hệ thống bài tập phù hợp, hợp lí: Khi dạy học sinh, giáo viên cần lựa chọn để đưa những bài tập có tính hệ thống, tức là những bài tập đó được mở rộng dần từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ quen đến lạ....Bài tập sau phải dựa trên cơ sở của bài tập trước. Có như thế mới phát huy được tính sáng tạo, năng lực tư duy cho học sinh. Các bài tập dạng “Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó” thì có rất nhiều và cũng rất đa dạng, phong phú. Vì thế phải dạy trong nhiều tiết mới có thể hướng dẫn học sinh giải được kiểu bài này. Trong quá trình dạy tôi đã cố gắng đưa ra nhiều kiểu bài tập từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó. Sau đây là một số bài tập tôi đã sử dụng phương pháp gợi mở hướng dẫn cho học sinh giải. Tôi xin trình bày cách hướng dẫn riêng của từng bài tập. * Kiểu bài “ẩn tổng” Bài 1: Tổng của hai số là số lớn nhất có hai chữ số. Tỉ số của hai số là.Tìm hai số đó *Hướng dẫn giải: - Số lớn nhất có hai chữ số là số nào? (99) - Vậy tổng của hai số cần tìm là bao nhiêu? (99) - Tỉ số cho ta biết điều gì? (Số bé bằng số lớn, hay số bé được chia thành 4 phần bằng nhau thì số lớn 5 phần như thế) - Vẽ sơ đồ minh họa bài toán. - Giải bài toán theo các bước đã học (hs tự giải) *Bài giải: Vì số lớn nhất có 2 chữ số là 99 nên tổng của hai số cần tìm là 99. Ta có sơ đồ: 99 Số bé: Số lớn: Theo sơ đồ, tổng số phần bằng nhau là 4 + 5=9 (phần) Số bé là: 99 : 9 x 4= 44 Số lớn là : 99 - 44 = 55 Đáp số: Số bé: 44 Số lớn: 55 Bài 2: Một hình chữ nhật có chu vi là 120cm. Chiều rộng bằng chiều dài.Tính chiều dài, chiều rộng của hình đó. *Hướng dẫn giải: - Khi đã biết chu vi của hình chữ nhật là 120 cm thì tìm tổng 2 cạnh chiều dài và chiều rộng như thế nào? (tính nửa chu vi: 120 : 2= 60cm) - Đối với bài toán này,tổng của 2số ẩn trong câu “Một hình chữ nhật có chu vi là 120 cm”. Vì vậy ta phải tính nửa chu vi, tức là tính tổng độ dài của 2 cạnh chiều dài và chiều rộng. - Vẽ sơ đồ minh họa bài toán. - Giải theo các bước đã học. *Bài giải: Nửa chu vi hình chữ nhật là: 120 : 2 = 60 (cm) Ta có sơ đồ: 60cm Chiều dài: Chiều rộng: Tổng số phần bằng nhau là: 3 + 2 = 5( phần) Chiều dài hình chữ nhật là: 60 : 5 x 3 = 36 (cm) Chiều rộng là: 60 - 36 = 24 (cm) Đáp số: Chiều dài: 36 cm Chiều rộng: 24 cm * Kiểu bài “Ẩn tỉ số”: Ví dụ: Tổng 2 số là 760. Tìm 2 số đó biết rằng số thứ nhất bằng số thứ hai. *Hướng dẫn giải: Nói số thứ nhất bằng số thứ 2 thì có nghĩa là số thứ nhất được chia thành mấy phần? ( Số thứ nhất được chia làm 3 phần , số thứ 2 được chia làm 5 phần như thế ). Vậy tỉ số của số thứ nhất và thứ 2 là bao nhiêu ? () Bài toán này thuộc dạng gì? ( Tìm 2 số khi biết tổng và tỉ số của 2 số đó). GV: Trong bài toán này , dữ kiện “ tỉ số” bị “ẩn”, vì vậy ta cần lập luận để tìm ra tỉ số của 2 số. Vẽ sơ đồ minh họa cho bài toán Giải theo các bước đã học . *Bài giải Vì số thứ nhất bằng số thứ 2 nên số thứ nhất ứng với 3 phần còn số thứ 2 ứng với 5 phần. Vậy tỉ số của số thứ nhất và thứ 2 là. Ta có sơ đồ: 760 Số bé : Số lớn: Theo sơ đồ tổng số phần bằng nhau là: 3 + 5 = 8 ( phần ) Số thứ nhất là : 760 : 8 x 3 = 285 Số thứ 2 là : 760 – 285 = 475 Đáp số : Số thứ nhất: 285 Số thứ 2: 475 d. Không làm thay học sinh: Thông thường, trong khi dạy học sinh người giáo viên thường mắc phải lỗi: “đó là làm thay học sinh”. Tôi nói làm thay ở đây có nghĩa là giáo viên quá vội vàng mong các em hiểu được, làm được bài, vì thế mà giảng quá kĩ, gần như “làm hộ” học sinh. Học sinh chỉ việc “ghi” lời thầy giảng.Vì thế, khi đưa ra một bài toán lạ hay một bài toán mới, giáo viên không nên bày ngay hay hướng dẫn quá tỉ mỉ mà cần giúp học sinh đọc kĩ đề bài, xác định dạng toán, lập luận để tìm ra dữ kiện bị “ẩn”(nếu có), vẽ sơ đồ...để các em tự chiếm lĩnh tri thức, có như thế thì các em mới nhớ được lâu và khi gặp các bài toán dạng tương tự, các em có thể tự giải mà không lúng túng. e. Đưa ra hệ thống bài tập tự luyện phù hợp: Sau mỗi buổi học, tiết học, người giáo viên cần đưa ra một số bài tập cho học sinh tự luyện (có thể ở tiết tự học, ở nhà).Vì thế, hệ thông bài tập tự luyện đưa ra cần phải phù hợp với đối tượng học sinh, nghĩa là vừa có kiểu tương tự đồng thời phải có sự sáng tạo. 2. Kết quả nghiên cứu: Sau một thời gian áp dụng nội dung và phương pháp mới cho học sinh dạng bài toán “Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó”, tôi nhận thấy rằng kết quả học tập của các em đã được nâng lên rõ rệt. Từ chỗ học sinh giải những bài toán đơn giản còn chưa thạo mà nay đa số các em đã giải được những bài tập nâng cao cùng dạng. Kết quả cụ thể là: Thời điểm TSHS Giỏi Khá Trung bình Yếu Cuối HKI 26 8 30,8% 10 38,4% 7 27% 1 3,8% Giữa HKII 26 10 38,4% 11 42,4% 5 19,2% Qua kết quả cho thấy nhì chung các em đều có ý thức làm bài. Điều quan trọng là khả năng phân tích, tổng hợp, khả năng suy luận logíc của các em đã được tăng lên. Chính vì nhờ phát triển những khả năng tư duy như thế nên các em giải các dạng toán khác cũng nhanh hơn, dễ dàng hơn. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số em bài làm đạt kết quả chưa được cao vì khả năng khả năng tư duy, suy luận còn hạn chế. IV. Kết luận 1. Tóm lược giải pháp: Môn Toán ở lớp 4 trong chương trình tiểu học nói chung và giải toán có lời văn lớp 4 nói riêng có vai trò hết sức quan trọng trong việc góp phần thực hiện mục tiêu chung của giáo dục tiểu học. Kĩ năng giải toán có lời văn ngày càng được hoàn thiện cũng chính là góp phần cho việc phát triển văn hoá của đất nước. Chính vì vai trò quan trọng đó mà việc đổi mới phương pháp giải toán có lời văn cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 4 nói riêng cần phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, có hệ thống trong suốt từng năm học, bậc học. Qua kết quả thực nghiệm và thực tế giảng dạy dạng toán có lời văn “ Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số” tôi thấy để tiết dạy có kết quả tốt cần thực hiện tốt các giải pháp: - Giáo viên phải tìm và thống kê các sai lầm của học sinh thường mắc phải khi học về giải toán có lời văn. - Áp dụng các phương pháp dạy khoa học, phù hợp với những sai lầm mà học sinh thường mắc phải khi học phần toán có lời văn dạng tỉ số. Củng cố khái niệm, qui tắc: so sánh, cộng, trừ, nhân, chia. Tăng cường luyện tập tạo thành kĩ năng trong giải toán cho học sinh, nhất là những học sinh yếu kém môn toán. - Phải giúp học sinh nắm vững các bước giải của dạng toán này. - Giúp học sinh tìm hiểu kĩ đề bài: đọc đề nhiều lần, xác định dạng toán, lập luận để tìm ra dữ kiện bị ẩn, vẽ sơ đồ,... - Trước và trong khi dạy dạng toán này, cần giúp HS nắm được những kiến thức có liên quan đến các khái niệm “tổng”, “tỉ số”, những kiến thức liên quan đến sự thay đổi “tổng”, thay đổi ‘tỉ số” bằng một số bài tập. - Những bài tập ra cho HS giải phải có hệ thống, tức là những bài tập đó được nâng cao mở rộng dần từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp ,từ quen đến lạ,... Bài tập sau phải dựa trên cơ sở của bài tập trước. Có như thế HS mới phát huy được tính sáng tạo, bồi dưỡng được năng lực tư duy cho HS. - Đối với những bài tập làm “mẫu”, giáo viên không nên trình bày ngay mà nên để HS suy nghĩ một lúc sau đó mới gợi ý dần bằng một số câu hỏi hay bằng sơ đồ ,...Giáo viên không nên hướng dẫn quá tỉ mỉ hoặc làm thay học sinh. Sau bài tập mẫu, giáo viên ra thêm một số bài tập có kiểu tương tự cho HS tự giải . 2. Phạm vi áp dụng: Tôi thiết nghĩ rằng những sai lầm thường mắc phải khi học phần giải toán “Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số”của học sinh lớp 4 ở lớp tôi, qua dự giờ đồng nghiệp, khảo sát học sinh. Tôi thấy, cũng là những lỗi phổ biến ở bậc tiểu học hiện nay trong nhà trường. Mặc dù kết quả của kinh nghiệm này còn hạn chế, nhưng cũng mang lại rất nhiều khả quan trong quá trình thực hiện, đã khắc phục, hạn chế nhiều sai lầm của học sinh khi học phần giải toán dạng này. Do đó, đề tài này có thể áp dụng đối với giáo viên và học sinh trong các tiết toán có lời văn lớp 4 của trường và có thể nhân rộng ở khối lớp 5 Bài học kinh nghiệm: Trong giảng dạy giáo viên phải luôn quan sát, chú ý phải ghi lại những điểm thành công trong bài dạy cũng như những mặt chưa đạt được trong tiết dạy ngay sau tiết học để rút kinh nghiệm bổ sung. Phải thường xuyên học hỏi để có nhiều kinh nghiệm, sáng tạo trong bài dạy, cách truyền thụ kiến thức nhằm tạo cho học sinh hứng thú học tập. Phải nắm được trình độ học sinh, để lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức cho phù hợp tạo ra không khí lớp học nhẹ nhàng, vui vẻ, sôi nổi. Giáo viên mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy bằng nhiều hình thức cho phù hợp với đặc điểm tình hình lớp mình để đạt hiệu quả cao nhất Quan tâm đến mọi đối tượng học sinh trong lớp nhằm bồi dưỡng cho học sinh yếu kém và học sinh khá giỏi. Giáo viên phải kiên trì, không vội vàng, nôn nóng, luôn tin tưởng vào sự tiến bộ của học sinh để khuyến khích, động viên các em kịp thời. Đồng thời cũng phải nghiêm khắc đối với những học sinh có biểu hiện lười và tiêu cực trong học tập. Lập kế hoạch bài học sát với thực trạng dạy và học của lớp mình. Đề ra những biện pháp dạy học thích hợp, nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng học tập của học sinh. Trên đây là những kinh nhiệm tôi đã đúc kết trong nhiều năm đã được áp dụng có hiệu quả, rất mong được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp để chuyên đề của tôi có được khả thi hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Tân Thuận 2 ngày 26 tháng 03 năm 2011 Người viết Lê Ngọc Quyền * Ý kiến của HĐTĐ cơ sở ... .... .... .. .. * Ý kiến của HĐTĐ Phòng GD&ĐT Vĩnh Thuận ............ .. ..
Tài liệu đính kèm: