Như chúng ta đã biết, Tiếng việt có vai trò cực kỳ quan trọng trong đời sống cộng đồng và đời sống mỗi con người Việt Nam. Đặc biệt đối với trẻ em, tiếng Việt có vai trò càng quan trọng h¬n. Ngay từ lúc mới lọt lòng, trẻ được giao tiếp hằng ngày, hằng giờ với Tiếng việt và khi cất tiếng nói đầu tiên, trẻ cũng nói lên tiếng nói của người Việt. Do đó, trẻ em cần học Tiếng việt một cách khoa học và cẩn thận để có thể sử dụng suốt năm tháng học tập ở nhà trường cũng như trong suốt cuộc đời.
Tiếng Việt là một môn học quan trọng cđa trường tiểu học. Trong đó phân môn tập làm văn chiếm vị trí quan trọng không nhỏ. Bởi vì dạy tập làm văn là dạy cho các em hình thành kỷ năng nói, viết, được xây dựng trên những thành tựu của nhiều môn học khác như tập đọc, luyƯn t vµ c©u, kể chuyện tập làm văn còn góp phần bổ sung kiến thức đòi hỏi huy động kiến thức nhiều mặt từ hiểu biết cuộc sống, rèn luyện tư duy và hình thành nhân cách học sinh.
Chương trình tập làm văn tiểu học bao gồm các thể loại như miêu tả, tường thuật, kể chuyện, viết thư, đơn trong đó kiểu bài miêu tả được học và chiếm thời gian nhiều nhất.
Tuy nhiên để giúp học sinh học tốt văn miêu tả điều quan trọng là làm thế nào giúp cho học sinh quan sát để tìm ý cho bài văn, biết
LỜI NÓI ĐẦU Như chúng ta đã biết, Tiếng việt có vai trò cực kỳ quan trọng trong đời sống cộng đồng và đời sống mỗi con người Việt Nam. Đặc biệt đối với trẻ em, tiếng Việt có vai trò càng quan trọng h¬n. Ngay từ lúc mới lọt lòng, trẻ được giao tiếp hằng ngày, hằng giờ với Tiếng việt và khi cất tiếng nói đầu tiên, trẻ cũng nói lên tiếng nói của người Việt. Do đó, trẻ em cần học Tiếng việt một cách khoa học và cẩn thận để có thể sử dụng suốt năm tháng học tập ở nhà trường cũng như trong suốt cuộc đời. Tiếng Việt là một môn học quan trọng cđa trường tiểu học. Trong đó phân môn tập làm văn chiếm vị trí quan trọng không nhỏ. Bởi vì dạy tập làm văn là dạy cho các em hình thành kỷ năng nói, viết, được xây dựng trên những thành tựu của nhiều môn học khác như tập đọc, luyƯn tõ vµ c©u, kể chuyện tập làm văn còn góp phần bổ sung kiến thức đòi hỏi huy động kiến thức nhiều mặt từ hiểu biết cuộc sống, rèn luyện tư duy và hình thành nhân cách học sinh. Chương trình tập làm văn tiểu học bao gồm các thể loại như miêu tả, tường thuật, kể chuyện, viết thư, đơn trong đó kiểu bài miêu tả được học và chiếm thời gian nhiều nhất. Tuy nhiên để giúp học sinh học tốt văn miêu tả điều quan trọng là làm thế nào giúp cho học sinh quan sát để tìm ý cho bài văn, biết lựa chọn các từ ngữ miêu tả cho sinh động, hấp dẫn. Không phải đưa ra các lời nhận xét chung mà phải tả các sự vật, hiện tượng bằng từ ngữ sinh động, gợi cảm. Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy phần đông học sinh lớp tôi làm văn miêu tả gặp những khó khăn về tri thức, hiểu biết, về đối tượng miêu tả, các em sẽ không biết miêu tả nếu như chưa được quan sát; vốn hiểu biết từ ngữ chưa sâu, thấy đâu tả đó, häc sinhh viÕt nh nãi, chưa biết bôïc lộ cảm xúc trong bài văn miêu tả của mình. Chưa biết cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong văn miêu tả để bài văn thêm phần hấp dẫn. Chính vì những lẽ đó, trong năm học 2010 – 2011, 2011 - 2012 tôi đã nghiên cứu và thực hiện “Một số biện pháp nhằm giúp học sinh lớp 4 học thể loại văn miêu tả đạt hiệu quả cao”. Năm học 2012 – 2013 này, tôi tiếp tục áp dụng đồng thời có bổ sung thêm một vài biện pháp đối với lớp 4 do tôi phụ trách hiện nay. Phần I: THỰC TRẠNG ĐỀ TÀI. Qua ba năm tích cực thực hiện: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 học thể loại văn miêu tả đạt hiệu quả cao”. Tôi đã theo dõi kết quả khảo sát đầu năm như sau: Năm học Sỉ số Giỏi Khá Trung bình Yếu SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% 2010–2011 21 2 3 11 5 2011–2012 24 4 6 10 4 2012–2013 18 3 6 6 3 Từ bảng số liệu trên cho thấy: Năm 2008 – 2009: Học sinh làm bài văn miêu tả đạt khá giỏi 24%, còn học sinh trung bình yếu 76%. Năm 2009 – 2010: Học sinh làm văn miêu tả đạt khá giỏi 42,3%, còn học sinh trung bình yếu 57,7%. Nam học 2010 – 2011: Số học sinh làm văn miêu tả đạt khá giỏi 47,4%, còn lại học sinh trung bình yếu 52,6% . Như vậy, cả ba năm kết quả đầu năm cho thấy học sinh làm văn miêu tả đạt khá giỏi chỉ từ 24% à 47,4%. Qua tìm hiểu thực tế ở lớp, gia đình và đồng nghiệp. Tôi nhận thấy nguyên nhân của tình hình nêu trên là do: * Nguyên nhân chủ quan: Giáo viên còn ngại khi phải dạy phân môn tập làm văn nên khi dạy còn nhiều lúng túng về phương pháp và nội dung. Điều này được thể hiện rõ qua những tiết thao giảng, dự giờ chéo phân môn tập làm văn ở trường. Phương pháp dạy của giáo viên còn rập khuôn thiếu sự dẫn dắt gợi mở cho học sinh tìm ra những từ, ý hay khi miêu tả. Giáo viên ít quan tâm đến việc hướng dẫn các em phải tả như thế nào để bôïc lộ được nét riêng biệt của đối tượng mình đang tả để thoát khỏi việc tả một cách khuôn sáo. Giáo viên thường hay thiếu tranh ảnh, vật thật để hổ trợ cho các em miêu tả. Việc chấm và sửa bài còn chung chung, chưa sửa ý hay nhằm phát huy cho học sinh khi học tập làm văn. Thiếu sự kết hợp, liên hệ giữa tiết dạy phân môn tập làm văn với các môn học khác. * Nguyên nhân khách quan: Khả năng quan sát miêu tả còn sơ sài, học sinh chưa biết sử dụng các giác quan để quan sát, quan sát chưa theo một trình tự, thấy đâu tả đó. Học sinh dùng từ đặt câu chưa hay, chưa biết lựa chọn từ ngữ thích hợp. Vốn từ ngữ còn quá nghèo nàn, dùng từ địa phương, diễn đạt chưa hay như nói chuyện bình thường. Dùng văn mẫu một cách chưa sáng tạo (do sách tham khảo bán tràn lan trên thị trường) các em rập khuôn theo mà chưa biết sáng tạo chọn lọc thành cái riêng của mình. Một số học sinh trung bình, yếu viết câu chưa thành thạo nên diễn đạt chưa mạch lạc các ý trong bài văn còn nhiều hạn chế. Từ thực tế nêu trên, để giúp học sinh học thể loại văn miêu tả đạt hiệu quả cao. Tôi đã tiến hành thực hiện các biện pháp sau: 1/ Hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý. 2/ Tạo điều kiện cho sinh tích luỹ vốn từ ngữ và lựa chọn vốn từ ngữ miêu tả qua các bài tập đọc, từ ngữ 3/ Sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong miêu tả. 4/ Bôïc lộ cảm xúc trong bài văn miêu tả. PHẦN II: BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT 1/ Quan sát tìm ý: a/ Sử dụng các giác quan để quan sát: Dạy học sinh quan sát chính là dạy sử dụng các giác quan để tìm ra các đặc điểm của sự vật. Thường học sinh chỉ dùng mắt để quan sát, tôi hướng dẫn các em tập sử dụng thêm các giác quan khác để quan sát. Ví dụ: Dạy “quan sát một cây hoa” – ngoài mắt – ta còn sử dụng cả mũi để phát hiện ra mùi thơm của hoa. Quan sát cái cặp “tôi yêu cầu học sinh dùng tay sờ vào cặp để phát hiện ra độ sần sùi hay nhẵn bóng của da cặp, bật khoá chiếc cặp để nghe tiếng kêu của chiếc khoá (bằng tai). b/ Hướng dẫn học sinh thu nhận các nhận xét do quan sát mang lại: Khi trình bày kết quả quan sát, tôi yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi bằng nhiều chi tiết cụ thể và sử dụng ngôn ngữ chính xác gợi hình ảnh. Ví dụ: Tả con đường từ nhà đến trường. Tôi hỏi: Hai bên đường có gì? – Học sinh: Hai bên đường có cây cối. Đây là sự quan sát hời hợt, sơ sài. Tôi lại hỏi: Em hãy quan sát cảnh vật hai bên đường? Câu trả lời có chi tiết hơn nhưng chưa hay, chua cụ thể. Hai bên đường có nhiều cây cối, mấy chú chim kêu ríu rít trên cành. Tôi gợi ý học sinh trả lời cụ thể và chi tiết hơn: “Hai bên đường cây cối xanh tươi, chúng nghiêng mình như cùng em tiếp bước. Mấy chú chim đậu trên cành hót ríu rít nghe vui tai làm sao!” Đồng thời,tôi cũng không quên rèn sự tinh tế khi quan sát. Đó là nhận ra đặc điểm ít người nhìn thấy. Tôi minh họa bằng những đoạn văn hay vào tiết lập dàn ý hoặc trả bài viết. Ví dụ: Nằm trong nhà , nghe tiếng lá rơi ngoài thềm, Trần Đăng Khoa mới mười tuổi đã phát hiện “Tiếng rơi rất khẽ như là rơi êm”. Nhìn bà nội – Em Thiên Trúc (Bình Chánh – TP Hồ Chí Minh) nhận ra “Năm qua đi, tháng qua đi, tôi càng cao thẳng, bà tôi càng thấp lại”. Còn em Phương Anh (Hà Nội) thì nhận xét: “Hai má bà lại hóp, thái dương hơi nhô, tay chân có chổ bắt đầu xương xẩu, nổi gân xanh” (Trích “những bài văn chọn lọc”) c/ Quan sát trong văn miêu tả tôi luôn hướng cho học sinh tìm ra những đặc điểm riêng biệt của đồ vật, cây cối, loài vật và bỏ qua đặc điểm chung: Ví dụ như nhận xét con gà trống ở nhà em phải cố tìm ra mào của nó, lông của nó, thân hình nó có gì khác với con gà ở hàng xóm? Dạy “Quan sát cây bút chì” không phải cho các em thấy được màu sắc, hình dáng của nó mà còn nhận ra những dòng chữ in trên vỏ và các đặc điểm khác như có bị dính mực không? Có bị trầy không? Bị sứt không? những đặc điểm ấy chỉ ruêng cây bút chì của em mới có. Quan sát trong văn miêu tả là làm cho học sinh cần phải nhận ra đặc điểm riêng biệt. Và đây là một điều hết sức quan trọng và tôi luôn luôn rèn luyện cho học sinh và giáo dục cho học sinh. Bởi đây là một điều bức xúc, học sinh có thói quen làm văn rập khuôn theo mẫu. Nếu như “tả con gà, tả cái cặp” thì tất cả mười chín học sinh lớp tôi đều có bài làm gần giống nhau. Vì thế, khi dạy văn miêu tả, tôi luôn nhắc nhở gợi ý học sinh tìm ra những nét riêng biệt, những tình cảm riêng biệt đối với đối tượng được tả. Có thể những đặc điểm riêng đó đối với người khác là bình thường nhưng đối với riêng em là đặc biệt vì nó gắn bó với em bằng một kỹ niệm, một sự kiện hoặt một niềm vui, nổi buồn nào đó. d/ Phân chia đối tượng để quan sát: Để quan sát một cây bàng, một cây đang ra hoa hay một con gà, một bức tranh thì tôi hướng dẫn cho học sinh cần phải phân chia các đối tượng đó thành từng bộ phận rồi lần lượt quan sát các đối tượng đó. Thông thường, có các sự phân chia đối với tả cảnh như phía trên, phía dưới,nửa phải nửa trái, phần trung tâm, bên trong, bên ngoài. Tôi thường lấy những đoạn văn miêu tả trong các bài tập đọc để minh hoạ cho học sinh tham khảo . Ví dụ: quan sát một thị trấn ven biển. Tác giả viết “Bên trong là vách đá dựng đứng, cao sừng sững. Bên ngoài là biển rộng mênh mông tạo thành một góc vuông vức ”(Thị trấn Cát Bà – Tập đọc lớp 4 tập 1) Còn Nguyễn Thái Vận thì tả rừng cọ quê mình: “Thân cọ vút thẳng trờihai, ba chục mét cao, gió bảo không thể quật ngã. Búp cọ vuốt dài như thanh kiếm s ... đặt câu hỏi của giáo viên trong văn miêu tả (miệng) không chỉ có tác dụng định hướng quan sát mà còn ảnh hưởng đến việc tìm tòi, hình ảnh khi miêu tả. Do đó, khi dạy, tôi không đặt câu hỏi về kiến thức khoa học mà đặt câu hỏi có tác dụng tìm ra những chi tiết miêu tả. Ví dụ: Tả con gà trống nhà em. Giả sử tôi hỏi: Câu hỏi 1: Con gà có những bộ phận nào? Câu hỏi 2: Nhìn con gà, em thấy nó có đặc điểm gì về màu lông, thân hình dáng đi, dáng đứng nó như thế nào? Ơû câu hỏi 1 chỉ nhằm hỏi kiến thức khoa học nên dành riêng cho môn tự nhiên xã hội. Câu hỏi này không có tác dụng gợi cho học sinh tìm các từ ngữ miêu tả. Ơû câu hỏi 2 học sinh biết tìm ra từ ngữ miêu tả. Đồng thời gợi cho các em biết liên tưởng đến con gà anh Bốn Linh, gà ông Bảy Hoá, gà bà Kiên dựa vaò bài tập đọc đã học (Những chú gà xóm tôi - Tập đọc - lớp 4). 3/ Sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong miêu tả: Để viết một đoạn văn hay, một bài văn hấp dẫn đòi hỏi trong từng đoạn văn phải có sử dụng một số hình thức nghệ thuật như so sánh, nhân hoá, thì bài văn mới sinh động. Nếu như một bài văn tả loài vật chỉ dừng lại ở việc miêu tả đầu, mình, đuôi, chân thì giống như liệt kê các bộ phận của một con vật thường gặp ở môn khoa học, không giống như một bài văn miêu tả. Vì thế, hướng dẫn các em biết sử dụng các hình thức nghệ thuật trong văn miêu tả là hết sức cần thiết. a/ Sử dụng biện pháp so sánh trong văn miêu tả: Dạy tả “Quang cảnh trường em trước buổi học”, có em nêu: “Vài vệt nắng sớm chiếu xuống cành lá”, “Gió thổi nhẹ”. Nội dung như thế đã đạt, câu văn gọn gợi ý. Nhưng để sinh động hơn, tôi gợi ý – học sinh có thể sửa lại: “Vài vệt nắng sớm như ve vuốt những lá cành xanh tươi còn lấm tấm những giọt sương đêm”. “Gió thổi nhẹ như lay động lá cành” . Bên cạnh đó, tôi thường lấy những đoạn văn miêu tả hay trong các bài tập đọc để học sinh tham khảo: Ví dụ 1: Tả hình dáng người bà, tác giả viết: “giọng nói bà tôi đặc biệt trầm bỗng nghe như tiếng chuông đồng. Nó khắc sâu vào trí nhớ tôi dể dàng như những đoá hoa và cũng rực rỡ đầy nhựa sống” (Bà tôi – Tiếng Việt – lớp 5 tập 1). Ví dụ 2: Tô Hoài miêu tả chim chích bông như sau: “Hai chân xinh xinh bằng hai chiếc tăm. Cặp mỏ chích bông tí tẹo bằng hai mảnh vỏ trấu chắp lại” [Chim chích bông – Tập đọc lớp 3, tập 2 (cũ)]. b/ Sử dụng biện pháp nhân hoá trong văn miêu tả: * Dùng biện pháp nhân hoá để tả hình dáng bên ngoài: Ví dụ: “Cộng cộc đứng trong tổ vươn cánh như tượng những người vũ nữ bằng đồng đang vươn tay múa. Chim gà đảy, đầu hói như những ông thầy tu mặc áo xám, trầm tư, rụt cổ nhìn xuống chân”. (Sân chim – Tiếng việt lớp 5 – Tập 1). * Nhân hoá để tả tâm trạng: “Những giọt sương rơi như những giọt lệ ai đó đang tiễn người đi xa”. “Dòng sông chảy lặng lờ như đang nhớ về một con đò năm xưa”. (Những bài văn hay lớp 5). 4/ Bộc lô cảm xúc trong văn miêu tả: Bài văn hay không thể thiếu được cảm xúc của người viết, không chỉ nêu cảm xúc ở phần kết luận mà cần thể hiện trong từng câu, từng đoạn. Điều này khi làm văn miệng, tôi luôn gợi ý để học sinh nêu cảm xúc của mình. Ví dụ: Sống trong ngôi nhà ấm cúng, đầy tình thương yêu của cha mẹ, em nghỉ đến ai? (Những mảnh đời bất hạnh của trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa, phải sống lang thang nơi mái hiên, gầm cầu). Đi trên con đường làng quen thuộc, em cảm thấy thế nào? (hình ảnh, âm thanh của nó đã trở nên gần gủi, thân thiết với em). Đứng dưới cây đa rợp bóng, em cảm thấy thế nào? (cây đa là niềm tự hào của làng quê em, ai đi đâu xa cũng nhớ về côïi đa quê mình). Với biện pháp này tôi cũng không quên lấy những đoạn văn hay ở các bài tập đọc để học sinh tham khảo. Ví dụ 1: “Hằng năm, cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều, lòng tôi lại náo nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường. Tôi quên sao được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cánh hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng”. (Nhớ lại buổi đầu đi học – Tập đọc lớp 3 – tập 1). Ví dụ 2: “Tôi đi giữa bãi dâu và có cảm giác như đang lội dưới dòng sông cạn. Cát ở rãnh luống mềm lún. Những cành dâu, lá xôn xao đón lấy ánh nắng chói chang, làm cho lớp cát dưới chân tôi mát rượi” (Bãi dâu – Tập đọc lớp 3 – tập 2 cũ). Ví dụ 3: “Lần nào trở về với bà, Thanh cũng thấy thanh thản và bình yêu như thế. Căn nhà, thửa vườn này như một nơi mát mẻ và hiền lành. Ơû đấy, bà lúc nào cũng sẵn sàng chờ đợi để mến yêu Thanh.” (Về thăm bà–Tập đọc lớp 4 tập 1). Tương tự như vậy, khi dạy tập làm văn, tôi thường gợi ý, dẫn dắt học sinh để giúp học sinh tìm ra những suy nghĩ, cảm xúc của mình trước một sự việc, một đối tượng được tả để bài văn không còn khô khan mà tràn đầy cảm xúc để hấp dẫn người đọc, người nghe. Như vậy, với những biện pháp vừa nêu trên, tôi tin rằng học sinh có thêm điều kiện để làm một bài văn miêu tả hay và phong phú. Đồng thời, đây cũng là nền móng cho những mầm non văn học trỗi dậy và vươn lên xanh tốt. PHẦN III: KẾT QUẢ. Qua ba năm liền thực hiện đề tài này, tôi thấy học sinh có chuyển rất rõ về cách làm văn miêu tả. Thống kê kết quả ba năm như sau: Năm 2009 – 2010: Sỉ số Giỏi Khá Trung bình Yếu SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% Đầu năm 25 2 8 4 16 14 56 5 20 Cuối năm 25 4 16 9 36 10 40 2 8 Năm 2010 – 2011: Sỉ số Giỏi Khá Trung bình Yếu SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% Đầu năm 26 3 11.5 8 30.8 11 42.3 4 15.4 Cuối năm 26 4 15.4 12 46.2 9 34.6 1 3.8 Năm 2011 – 2012: Sỉ số Giỏi Khá Trung bình Yếu SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% Đầu năm 19 3 15.8 6 31.6 7 36.8 3 15.8 Học kỳ 1 19 5 26.3 9 47.4 4 21.0 1 5.3 Từ các bảng trên cho thấy, qua ba năm nghiên cứu và thực hiện, số học sinh khá, giỏi tăng, số học sinh trung bình, yếu giảm. Cụ thể như sau: Số học sinh khá giỏi tăng: Năm 2009 – 2010 tăng từ 24% à 52%. Năm 2010 – 2011 tăng từ 42.3% à 61.6% Năm 2011 – 2012 tăng từ 47.4% à 73.7% Số học sinh trung bình, yếu giảm: Năm 2009 – 2010 giảm từ 76% à 48%. Năm 2010 – 2011 giảm từ 57.7% à 38.4% Năm 2011 – 2012 giảm từ 52.6% à 26.3% Điều này chứng tỏ một số biện pháp thực hiện đã mang lại kết quả khả quan. Điển hình như em NguyƠn Minh Quang đầu năm em không biết miêu tả là gì, bài văn của em lúc nào cũng đạt điểm rất thấp. Nhưng với việc áp dụng các biện pháp trên, thi học kỳ một bài làm của em đã đạt kết quả trung bình. KÕt luËn Trong quá trình thực hiện và đưa vào thực tế trong phạm vi đề tài ở tiết Tập làm văn miêu tả lớp 4. Bản thân tôi đã rút ra nhiều kinh nghiệm và khẳng định đây là hình thức dạy học làm chuyển hoá quá trình học tập của học sinh. Như vậy cần phải thực hiện một số giải pháp sau: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý: quan sát bằng nhiều giác quan: mắt, mũi, tay, tai qua đó học sinh phát hiện, khám phá đầy đủ các đặc điểm của sự vật, làm cho chúng hiện ra đầy đủ, rõ ràng tránh được những bài văn miêu tả chung chung mờ nhạt. Khi hướng dẫn học sinh quan sát cần gợi mở, dẫn dắt theo một trình tự hợp lý, để học sinh tự mình quan sát, tự mình cảm nhận tính chất muôn hình muôn vẻ của sự vật. Đây là điều kiện chủ yếu làm nền tảng giúp cho bài viết trở nên chân thật, tự nhiên và đây cũng là cơ sở cho sự phát huy trí tưởng tượng và năng lực sáng tạo của học sinh (sáng tạo trong cách nhìn, cách nghĩ, cách diễn đạt nội dung). Đặc biệt, giáo viên phải sử dụng tranh, ảnh trong văn miêu tả cụ thể, từng vùng, từng miền khác nhau mà giáo viên lựa chọn tranh ảnh cho phù hợp để cho các em quan sát tốt hơn. Tích luỹ và lựa chọn vốn từ ngữ khi miêu tả cũng là biện pháp không kém phần quan trọng giúp cho học sinh nhớ lại một từ ngữ, một hình ảnh, biết lựa chọn từ ngữ hay, thích hợp, phong phú vào bài văn để thêm phần hấp dẫn. Bài văn miêu tả hay thì không thể thiếu cảm xúc của người viết, có thể hiện được cảm xúc trong bài văn thì mới thu hút người đọc, người nghe. Song, để quá trình đó diễn ra tốt, đòi hỏi người giáo viên phải nắm vững yêu cầu cơ bản và biết vận dụng linh hoạt sáng tạo trong từng tiết học với từng đối tượng được tả. Bởi vậy, dạy tập làm văn giáo viên không chỉ dựa vào sách giáo khoa mà còn cần đến những tư liệu tham khảo để mở rộng hiểu biết về nội dung phương pháp và vốn từ ngữ trong từng văn cảnh để cung cấp gợi ý cho học sinh. Có như vậy thì chất lượng giáo dục mới từng bước nâng lên. Đề tài trên nhằm giúp học sinh lớp 4 làm một bài văn miêu tả đạt hiệu quả cao. Qua đó, các em còn có thể cảm thụ chất “văn” ở từng ý, từng câu, từng đoạn trong bài văn thực tế của mình. TÀI LIỆU THAM KHẢO Đặng Văn Khương – Trần Văn Sáu: Những bài văn mẫu lớp 5 – NXB TP Hồ Chí Minh. Tiến sĩ Bùi Văn Sơm – Hướng dẫn cán bộ quản lý trường học và giáo viên viết sáng kiến kinh nghiệm. Vũ Khắc Tuân: Bài tập luyện viết văn miêu tả ở tiểu học – tập 2. 150 bài văn hay lớp 5 – nhiều tác giả. Tiếng Việt lớp 5 – tập 1. Tiếng Việt lớp 4 – tập 1,2. Tiếng Việt lớp 3 – tập 1 (mới). Tiếng việt lớp 3 – tập 2 (cũ).
Tài liệu đính kèm: