Sáng kiến kinh nghiệm Toán phần phân số ở lớp 4

Sáng kiến kinh nghiệm Toán phần phân số ở lớp 4

Môn toán là môn học rất quan trọng trong các môn học ở chương trình tiểu học, đồng thời xuyên suốt ở các cấp học, bậc học. Là GV đứng lớp nhiều năm ở bậc tiểu học, qua kết quả thi hằng năm. Tôi đã nhận thấy rằng kết quả học lực môn toán qua các đợt kiểm tra định kì hằng năm của học sinh, học sinh khá, giỏi từ khối 1 đến khối 3 đạt học sinh nhiều hơn khối lớp 4. Thời gian này tôi được BGH nhà trường phân công dạy khối lớp 4 được 3 năm liền. Qua nhiều lần trăn trở về chất lượng của học sinh ở môn Toán cùng với việc kết hợp rút kinh nghiệm trong các tiết học và tình hình học tập trên lớp của học sinh qua các năm học, phần mà học sinh khối lớp 4 vướng phải nhiều nhất ở môn toán là mạch kiến thức về phân số. Vì thế tôi cần nghiên cứu tìm giải pháp giúp học sinh học tốt mạch kiến thức này nhằm nâng cao chất lượng học tập cho học sinh về môn toán.

doc 21 trang Người đăng haiphuong68 Lượt xem 1069Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Toán phần phân số ở lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
B/. PHẦN NỘI DUNG
PHẦN I : LỜI NÓI ĐẦU
1/ Lý do chọn đề tài 
Môn toán là môn học rất quan trọng trong các môn học ở chương trình tiểu học, đồng thời xuyên suốt ở các cấp học, bậc học. Là GV đứng lớp nhiều năm ở bậc tiểu học, qua kết quả thi hằng năm. Tôi đã nhận thấy rằng kết quả học lực môn toán qua các đợt kiểm tra định kì hằng năm của học sinh, học sinh khá, giỏi từ khối 1 đến khối 3 đạt học sinh nhiều hơn khối lớp 4. Thời gian này tôi được BGH nhà trường phân công dạy khối lớp 4 được 3 năm liền. Qua nhiều lần trăn trở về chất lượng của học sinh ở môn Toán cùng với việc kết hợp rút kinh nghiệm trong các tiết học và tình hình học tập trên lớp của học sinh qua các năm học, phần mà học sinh khối lớp 4 vướng phải nhiều nhất ở môn toán là mạch kiến thức về phân số. Vì thế tôi cần nghiên cứu tìm giải pháp giúp học sinh học tốt mạch kiến thức này nhằm nâng cao chất lượng học tập cho học sinh về môn toán.
2/ Lịch sử của vấn đề. 
Đối với chương trình toán ở tiểu học từ khối 1 đến khối 3 kiến thức sơ giản ban đầu về toán học nên học sinh dễ nắm bắt kiến thức , vận dụng kiến thức vào để rèn kĩ năng tính cũng nhẹ nhàng hơn phù hợp với tâm lí lứa tuổi của học sinh . Bắt đầu kiến thức từ lớp 4 , kiến thức toán học được nâng cao lên rõ rệt ở tất cả các mạch kiến thức như đại lượng , yếu tố hình học, số học , Nhưng mới nhất đối với học sinh khối lớp 4 đó là mạch kiến thức về phân số .	
Để học sinh nắm bắt và học tốt mạch kiến thức về phân số đòi hỏi giáo viên phải nghiên cứu kĩ và thông suốt về trình tự nội dung kiến thức toán về phân số . Giáo viên phải kích thích sự ham muốn học tập của học sinh về toán học , gợi lên sự tìm tòi học cái mới mẻ về toán học ], học tập là niềm vui lí thú của học sinh . Vậy giáo viên tổ chức dạy học theo hướng tập trung vào người học , học sinh phải tự giác tìm hiểu , nghiên cứu , nắm bắt kiến thức mới và vận dụng kiến thức mới vào việc rèn kĩ năng luyện tập làm tính , giải toán . Vai trò của giáo viên lúc này là người tổ chức , hướng dẫn và điều khiển , định hướng và điều chỉnh giúp học sinh học tập tốt .
	Giúp học sinh học tập tốt giáo viên phải đầu tư nhiều vào việc thiết kế bài học , giáo viên phải xác định rõ mục tiêu , nắm vững nội dung từng bài học để chuẩn bị đồ dùng dạy học, lựa chọn phương pháp phù hợp , tổ chức lớp học cho học sinh hoạt động tích cực theo từng đối tượng để giáo viên có phương pháp kích thích học tập phù hợp cho từng loại đối tượng để tăng việc hứng thú học tập của các em .
3/ Phạm vi đề tài.
Vậy làm như thế nào để học sinh học nắm chắc và học tốt môn toán phần phân số .Qua 3 năm thực tế giảng dạy lớp 4 , tôi suy nghĩ , tìm tòi và rút ra một số kinh nghiệm nhỏ nhằm nâng cao chất lượng dạy và học nội dung toán phần phân số ở lớp 41. Tại trường Tiểu học Vĩnh Phú – Giang Thành – Kiên Giang. 
PHẦN II : THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
1 / Thực trạng tình hình 
Địa bàn tôi dạy thuộc vùng sâu vùng xa, biên giới xã Vĩnh Phú – Giang Thành – Kiên Giang; bàn ghế học sinh chưa phù hợp, lớp học thiếu ánh sáng, số dân nghèo còn nhiều, đời sống vật chất thiếu thốn, hầu hết các bậc phụ huynh trình độ văn hóa thấp; kiến thức, cũng như nhận thức còn hạn chế nên phụ huynh ít quan tâm việc học tập của con của mình. Chính vì vậy mà việc chăm lo đầu tư cho con em học hành chưa có hoặc có nhưng chưa đáp ứng yêu, nhu cầu học tập của con em. Từ những khó khăn trên làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh . 
Hơn nữa, trong quá trình học tập các em còn mải chơi chưa thật tập trung cho việc học, trí nhớ thiếu bền vững nên phần nào kiến thức, kĩ năng đạt được chưa thật vững chắc. Điều này khiến các em tiếp thu bài mới cũng gặp không ít khó khăn.
Xuất phát từ nhu cầu của công cuộc đổi mới sâu sắc nền kinh tế xã hội đang diễn ra trên đất nước ta ngày nay. Công cuộc đổi mới này cần những người có bản lĩnh, có năng lực, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, thích ứng được với đời sống xã hội đang từng ngày, từng giờ thay đổi, đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng Tổ Quốc ta.
 Để đáp ứng được những mục tiêu trên, phương pháp giáo dục cũng phải hướng vào việc khơi dậy, rèn luyện và phát huy những khả năng tự chủ, năng động, sáng tạo ngay trong học tập và rèn luyện ở nhà trường.
 “Trong những đổi mới về giáo dục và đào tạo thì đổi mới phương pháp dạy học, có vị trí đặc biệt quan trọng vì hoạt động dạy học đang là hoạt động chủ yếu của nhà trường và xét cho cùng thì khoa học giáo dục là khoa học về phương pháp, sáng tạo về khoa học giáo dục thực chất là sáng tạo về phương pháp giáo dục trong đó có phương pháp dạy học. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới chỉ ra rằng cuộc cách mạng về phương pháp sẽ đem lại bộ mặt mới, sức sống mới cho giáo dục trong xã hội hiện đại. Hơn nữa ở các bậc học càng thấp, vai trò của phương pháp càng quan trọng . Đặc biệt bậc tiểu học là bậc nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển nhân cách con người, đặt nền móng vững chắc cho giáo dục phổ thông và toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân.”
Trong chương trình tiểu học, môn toán giữ vị trí quan trọng, thời gian dành cho môn toán chiếm tỉ lệ khá cao trong toàn bộ quỹ thời gian các môn học ở tiểu học. Bởi vì môn toán là một trong những môn khoa học, đối với bậc tiểu học, nó góp phần rèn luyện cho học sinh phương pháp suy luận, cách giải quyết vấn đề giúp các em phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, cách xử lý tình huống linh hoạt, sáng tạo.
Bắt đầu từ năm học 2005- 2006 chương phân số và các phép tính về phân số được đưa xuống dạy ở lớp 4. Đây là một nội dung tương đối khó đối với học sinh lớp 4 các em mới bắt đầu học khái niệm và phải thực hành luôn. Theo chương trình cũ thi các em học các phép tính ở lớp 5, khi các em đã học ôn lại những kiến thức về số tự nhiên rất kĩ. Chương “ phân số - các phép tính về phân số” gồm các nội dung sau:
+ Hình thành khái niệm về phân số: Học sinh cần năm được mỗi số tự nhiên đều có thể viết dưới dạng phân số có mẫu số là 1. Số 1 có thể viết dưới dạng phân số có tử số và mẫu số bằng nhau và khác 0.
+ Hình thành khái niệm và các tính chất, tác dụng cơ bản về phân số bằng nhau, rút gọn phân số, quy đồng mẫu số các phân số
+ Hình thành quy tắc so sánh hai phân số cùng mẫu số, khác mẫu số, so sánh phân số với 1.Vận dụng để sắp xếp các phân số theo thứ tự từ bé đến lớn ( hoặc từ lớn xuống bé ). Tìm phần bù của hai phân số bằng cách lấy 1 trừ đi phân số đó rồi so sánh hai phần bù. Nếu phần bù nào lớn thì phân số đó bé và ngược lại. Nhưng phần này chỉ giúp những học sinh khá, giỏi vì làm như thế này rất dễ nhầm lẫn.
+ Hình thành quy tắc phép cộng, phép trừ, phép nhân, phép chia hai phân số, kết hợp giải các bài toán bốn phép tính về phân số và các dạng toán có liên quan đến nội dung đại lượng, đo đại lượng, các yếu tố đại số, hình họcĐây là nội dung mà học sinh thường mắc sai lầm trong khi thực hành luyện tập.
Như vậy để học sinh có được những kiến thức, kỹ năng về phân số và vận dụng vào giải các bài toán bốn phép tính về phân số là rất quan trọng. Vị trí của việc dạy học giải toán lại càng quan trọng hơn. 
2/ Những hạn chế khó khăn gặp phải khi dạy – học toán 4 – Phần phân số: 
Cấu trúc nội dung, chương trình sách giáo khoa mới của tiểu học nói chung, của lớp 4 nói riêng có những thay đổi so với nội dung, chương trình cũ. Đối với môn toán lớp 4 hiện nay thì chương “ Phân số- Các phép tính về phân số” đã được đưa vào dạy một cách đầy đủ. Đây là một nội dung khó đối với giáo viên và học sinh. Trước khi học phần này các em đã được học về dấu hiệu chia hết cho 2,5,3 và 9. Nhưng đến chương “ Phân số” với các tính chất và các phép toán của “ phân số”. Đặc biệt là vận dụng các phép toán để giải các bài toán bốn phép tính về phân số, các bài toán có lời văn liên quan đến phân số học sinh còn gặp nhiều khó khăn. Sau khi nghiên cứu phương pháp dạy học môn toán ở bậc tiểu học, đặc biệt là phần dạy học chương “ Phân số” . Qua thăm dò ý kiến của giáo viên trực tiếp giảng dạy, qua điều tra, khảo sát và qua kinh nghiệm những năm giảng dạy tôi nhận thấy rằng: Sau khi hình thành quy tắc đối với mỗi phép tính ( ở phần lý thuyết ) các em đều vận dụng tốt. Nhưng khi học đến các phép tính về sau các em rất dễ nhầm lẫn sang phép tính trước mới học và những sai lầm này trở nên phổ biến ở nhiều học sinh. 
Hơn nữa, học giải toán về phân số là vấn đề có tính hai mặt :
Một là: Do yêu cầu của bộ môn toán ở tiểu học, do đòi hỏi thực tiễn cuộc sống và lao động sản xuất.
Hai là: Mạch kiến thức về phân số là vấn đề mới và tương đối khó đối với học sinh tiểu học.
Trong thực tế dạy học bộ môn toán ở tiểu học đã bộc lộ nhiều bất cập. Nội dung dạy học giải bài tập toán về phân số còn rất thấp so với việc dạy học các nội dung toán học khác đươc đề cập đến trong nội dung, chương trình tiểu học mới đang hiện hành. Do đó tôi mạnh dạn đưa ra một số nguyên nhân, thực trạng đề từ đó đề ra những giải pháp nhằm hạn chế, khắc phục những vẫn đề được nêu sau đây:
Thứ nhất là về cấu tạo phân số trong quá trình thực hiện yêu cầu của bài toán rút gọn phân số, học sinh hầu như chưa thể rút gọn tới tối giản.
Thứ hai là về so sánh phân số trong quá trình thực hiện yêu cầu so sánh của bài toán cần giải quyết, các em thường không nắm vững quy tắc so sánh nên dẫn đến kết quả của bài toán thường sai một phần thậm chí sai hoàn toàn.
Thứ ba là thực hành các phép tính trên phân số trong quá trình thực hiện các em thường mắc một số lỗi do nhầm lẫn giữa các quy tắc, cũng như bước thực hiện nên dẫn tới cho ra kết quả chưa sát với đáp án hay sai kết quả.
PHẦN III : GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ
1/ Những giải pháp khắc phục: 
 Từ những khó khăn mắc phải trong quá trình dạy học tôi đã đúc rút ra được một số kinh nghiệm và giải pháp khắc phục những khó khăn trên, giúp học sinh học tốt hơn phần phân số ở toán 4.
Thứ nhất là về cấu tạo phân số:
Trong quá trình giảng dạy tôi đã rút ra một số kiến thức cần ghi nhớ ở mỗi phần học, bài học. Nắm rõ mục tiêu yêu cầu của bài, từ đó hướng dẫn các em thực hiện tốt yêu cầu của các bài tập thực hành hay luyện tập theo chuẩn kiến thức kĩ năng.
a/. Lỗi thường mắc phải của học sinh:
Ví dụ : Rút gọn phân số sau: 1/ Chưa tối giản. (1)
 2/ (2)
b/. Nguyên nhân: 
Do các em chủ quan, nên khi gặp yêu cầu rút gọn phân số thì các em chỉ cần rút gọn được phân số đó là được, không quan tâm xem phân số đó đã được rút gọn tối giản hay chưa.
Các em chư ... ân số có cùng mẫu số, ta trừ hai tử số với nhau và giữ nguyên mẫu số.
 - = 
Muốn cộng hai phân số khác mẫu số, ta quy đồng mẫu số rồi cộng hai phân số đó .
 - = 
- Đối với ví dụ 1 và 2: Yêu cầu học sinh nắm vững quy tắc trư hai phân số Đồng thời chỉ ra chỗ sai lầm cho học sinh thấy, rồi cho các em làm các bài tập tương tự.
+ Hướng dẫn VD1 : - Quy đồng mẫu số các phân số 
= = 
 = = 
Vậy: - = - = = 
 Với ví dụ này cần tìm mẫu số chung nhỏ nhất :Tức là đi tìm một số nhỏ nhất mà chia hết cho cả 4 và 6 số đó là 12.
Ta có: 12 : 4 = 3 nên = = 
 12 : 6 = 2 nên = = 
Do đó: - = - = 
+ Đối với ví dụ 2: Do các em chưa nắm vững cách chuyển số tự nhiên về phân số ( ví dụ: 2 = = = ) chọn phân số nào có cùng mẫu số với phân số đã cho. Đối với phép trừ phân số cho số tự nhiên cũng vậy.Trong trường hợp này: 2 - = - = 
Như vậy đối với phép trừ cần hướng dẫn cho học sinh nắm vững cách so sánh hai phân số để tránh nhầm lẫn ( Số bị trừ < Số trừ ). Đặc biệt các bài toán có lời văn. Đối với hỗn số thì các em cần nắm chắc và hiểu được hỗn số là cách viết khác của phân số. Khi học xong phép cộng và phép trừ thì hướng dẫn các em sử dụng phương pháp thử lại để kiểm tra kết quả bài làm.
(VD: - Thử lại: Thì là kết quả đúng)
a.3/ Nhân phân số với phân số, số tự nhiên, hỗn số và ngược lại.
Với phép nhân thì các em ít mắc sai lầm song có một số dạng đặc biệtvà một số ít học sinh mắc phải.
VD1 : Tính ; x có học sinh làm : x = ( nhầm với phép cộng )
VD2: Tính: 3 x ( nhân số tự nhiên với phân số và ngược lại)
Có học sinh làm: 3 x = hoặc 3 x = x = = 
b.3 Nguyên nhân :
- Sự sai lầm thường rơi vào tiết luyện tập. Do học sinh nắm quy tắc nhân phân số chưa thật chắc đã nhầm sang phép cộng hai phân số cùng mẫu số.
- Trong ví dụ 2 ngoài việc không nắm được quy tắc nhân thì các em còn không nắm đước số tự nhiên là phân số đặc biệt có mẫu số là 1. Một số em thì nhầm phép nhân với phép chia.
c.3/ Biện pháp khắc phục:
- Trước khi làm phần bài tập ( luyện tập) Yêu cầu học sinh nhắc lại quy tắc và một số chú ý trong sách giáo khoa có liên quan đến kiến thức bài học. 
- Trong khi thực hành mẫu giáo viên cần thực hiện từng bước một rõ ràng, cụ thể không thể làm đơn giản ( làm tắt ). Để khi thực hiện những học sinh yếu nắm được cách làm. Yêu cầu học sinh phân biệt rõ phần chú ý của phép cộng số tự nhiên với phân số, quy tắc nhân phân số Giáo viên cần chỉ rõ bản chất của từng quy tắc đối với mỗi phép tính đồng thời chỉ rõ sai lầm cho các em khắc phục và tránh những sai lầm đó.
3. Phép nhân: Muốn nhân hai phân số, ta nhân tử số với tử số, mẫu số nhân với mẫu số 
 x = 
+ Hướng dẫn học sinh khắc phục:
Trong ví dụ 1: x = = ( nhân tử số với tử số, mẫu số với mẫu số )
Với ví dụ 2: 3 x ( vì 3 = ) nên 3 x = x = 
 Hoặc: 3 x = x = = 
( Đối với nhân số tự nhiên với phân số hoặc ngược lại thì ta chỉ việc nhân số tự nhiên với tử số của phân số giữ nguyên mẫu số )
a.4/ Phép chia phân số với phân số, số tự nhiên, hỗn số và ngược lại.
Với phép chia thì các em dễ sai lầm giữa phép nhân và phép chia, đến phần này các em lúng túng không biết làm như thế nào.
VD1: Tính: : Học sinh làm sai: : = = 
 : = = 
 VD2: Tính: : 2 Học sinh làm sai: : 2 = = 
b.4/ Nguyên nhân.
- Phép chia hai phân số khó hơn các phép tính đã học trước đó vì nó vừa áp dụng quy tắc chia vừa phải vận dụng kiến thức của phép nhân hai phân số đã học, đặc biệt là việc đảo ngược phân số thứ hai.
- Các em sai lầm do không nắm được quy tắc nhân, chia phân số do đó nhầm lẫn giữa phép nhân và phép chia. Từ đó đối với số tự nhiên cũng gặp sự sai lầm tương tự.
- Mặt khác học sinh lại nhìn thấy các yếu tố có quan hệ rút gọn nên các em đã rút gọn một cách tự nhiên . Chứng tỏ các em chưa nắm chắc bản chất của phép toán .
c.4/Biện pháp khắc phục.
- Đối với ví dụ 1: Yêu cầu các em cần phân biệt rõ quy tắc nhân và chia. Giáo viên cần chỉ rõ chỗ sai lầm, khi lam mẫu cần làm đủ các bước không nên làm tắt ..
4. phép chia: Muốn chia một phân số cho một phân số, ta lấy phân số thứ nhất nhân với phân số thứ hai đảo ngược .
 : = x = 
Cụ thể: : = x = = ( nhân phân số thứ hai đảo ngược)
- Đối với ví dụ thứ 2: Giáo viên lại phải khắc sâu một lần nữa ( số tự nhiên là phân số đặc biệt )sau đó hướng dẫn cách làm: 
Hoặc: : 2 = : = x = hay : 2 = = ( Chia phân số cho số tự nhiên ta chỉ việc giữ nguyên tử số và lấy mẫu số nhân với số tự nhiên đó)
Ngoài việc thực hiên đúng ra thì giáo viên cần hướng dẫn các em dùng phép thử lại để kiểm tra kết quả của mình đã thực hiện bằng các phép tính trước đã học. ( VD: : 2 = Thử lại x 2 = = Thì kết quả làm đúng )
* Một số lưu ý khi dạy bốn phép tính về phân số.
 Lưu ý :
 a. Tính chất giao hoán 
 + = + ; x = x 
 b.Tính chất kết hợp:
 + = + ; 
c. Tính chất phân phối của phép nhân đối với phép cộng:
 x = x + x 
 Sau khi dạy xong bốn phép tính đối với phân số và qua các ví dụ sai lầm cụ thể của học sinh giáo viên cần lưu ý: 
+ Giáo viên cần đưa ra các ví dụ, các bài tập tổng quát, sự dụng biện pháp trắc nghiệm để các em hiểu rõ hơn về bản chất của bốn phép tính mà các em đã học.
+ Sau khi học phép trừ và phép chia giáo viên hướng dẫn các em dùng phép thử lại để kiểm tra kết quả.
+ Khi dạy thực hiện giáo viên cần thực hiên đúng các bước của bài toán để các em học yếu có thể thực hiện được.
* Sau khi học xong bốn phép tính giáo viên dùng biện pháp trắc nghiệm tổng quát để kiểm tra kết quả của các em. 
VD: cho ; ; (với b # 0 ; d # 0 ). Hãy đánh dấu ( x ) vào những phép tính đúng.
 + = + = 
 + = + + = 
 - = - - = 
 - = - = 
 x = x =
 : = x = : == 
 : = : = 
 a x =	 : d = 
Qua ví dụ này nếu học sinh đánh dấu sai ở phép tính nào chứng tỏ học sinh chưa nắm vững kiến thức ở phép tính đó. Qua đó giáo viên thấy được lỗi cơ bản của học sinh lớp mình để khắc phục. Chỉ rõ từng thành phần của phép toán, phép tính cho các em thấy được sai lầm và hướng sữa chữa.
Ngoài các tiết học chính theo phân phối chương trình toán về phân số giáo viên còn tổ chức rèn cho học sinh giải bài tập toán về phân số mỗi tuần 1-2 tiết. Nội dung các bài tập toán ở vở bài tập toán 4, đối với học sinh giỏi khá giáo viên tổ chức cho học sinh giải lượng bài tập nhiều hơn, giáo viên chỉ gợi ý đối với bài toán khó, kiểm tra sát để kịp thời sửa chữa chỗ sai mà học sinh còn vướng phải, đồng thời giáo viên giải thích chỉ rõ chỗ học sinh còn mắc phải. Đối với học sinh trung bình yếu, giáo viên tổ chức cho học sinh giải lượng bài tập ít hơn và nội dung bài tập phù hợp với trình độ chuẩn của học sinh, giáo viên theo dõi gợi ý, giúp học sinh nhiều hơn, sửa chữa điều chỉnh chỗ sai kịp thời, giải thích cho học sinh hiểu rõ. Đối với bài toán khó giáo viên cần tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm để tìm các bước giải, sau đó từng cá nhân tự giải vào vở. Đối với học sinh tiến bộ giáo viên khuyến khích động viên, khích lệ động cơ học tập cho các em.
2/ Kết quả đạt được .
Kinh nghiệm được rút ra từ thực tế dạy học , năm học 2009 – 2010 tôi đã chú ý vận dụng các biện pháp trên một cách hợp lý và hiệu quả . Chính vì vậy đã góp phần vào nâng cao chất lượng dạy học toán của lớp trong năm học 2009 – 2010 . Cụ thể là : 
Sau khi học sinh thi xong học kì II cho thấy kết quả rất khả quan. 
* Có : 33/33 học sinh đạt yêu cầu về môn toán . Chia ra 
+ Điểm Giỏi: 9 em Đạt tỷ lệ: 27, 27 %
+ Điểm Khá:15 em Đạt tỷ lệ: 45,45 %
+ Điểm TB: 9 em Đạt tỷ lệ: 27, 27%
IV / KẾT LUẬN
1/ Tóm lược giải pháp:
Muốn truyền đạt cho học sinh nắm được cách giải các bài toán về phân số, người giáo viên phải nghiên cứu, đọc nhiều tài liệu, sách tham khảo để tìm ra các dạng bài tập theo nội dung kiến thức khác nhau một cách cụ thể. Sau đó sắp xếp các bài toán đó theo hệ thống từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp (có dựa vào chuẩn kiến thức kĩ năng 4).
	Dạy các bài tập về phân số đòi hỏi học sinh phải huy động phối hợp nhiều nội dung kiến thức khác về môn toán như các dạng toán cơ bản, các tính chất của phép tính. Để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ giáo viên phải phối hợp nhiều phương pháp trong giảng dạy đặc biệt coi trọng việc phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Người giáo viên chỉ là người gợi mở dẫn dắt để học sinh tự tìm ra tính, cách giải. Dạy cho học sinh cách quan sát, phân tích các dữ kiện của đầu bài, tìm hiểu mối liên hệ giữa các dữ kiện, cách suy luận lô gíc để bài làm, bài giải chặt chẽ.
	Với đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học: dễ nhớ song lại dễ quên, tư duy trực quan, do đó giáo viên cần cho học sinh được luyện tập nhiều, các bài cần có hệ thống, bài trước làm cơ sở hướng tính, hướng giải cho bài sau, các bài tập cần được nâng khó dần.
	Trong quá trình dạy cần quan tâm đến chấm và chữa bài làm cho học sinh để xem bài làm đã chính xác chưa, chỗ nào cần sửa hoặc bổ sung.
2/ Phạm vi áp dụng :
Mặc dầu đã được kiểm chứng qua thực tế ở trường Tiểu học Vĩnh phú , đặc biệt là lớp tôi chủ nhiệm (lớp 41 ). Song mới chỉ là kinh nghiệm nhỏ , chắc chắn sẽ không tránh khỏi thiếu sót . Rất mong được sự giúp đỡ của Ban giám hiệu Nhà trường, quý thầy cô và bè bạn . Để kinh nghiệm này được hoàn thiện hơn có ứng dụng cao hơn trong việc dạy và học của ngành chúng ta .
3/ Bài học kinh nghiệm :
Qua việc nghiên cứu và áp dụng phương pháp dạy toán phần phân số cho học sinh lớp 4 cho thấy các em giải các bài toán về phân số ở lớp 4 không khó nhưng hay nhầm lẫn trong quá trình tính và giải toán. Sau quá trình nghiên cứu và áp dụng kinh nghiệm sáng kiến thì học sinh biết làm tính và tính đúng cũng như áp dụng vào giải toán đạt kết quả rất cao, dẫn tới học sinh đạt tỉ lệ cao về làm và giải toán phần phân số . Vì vậy theo chủ quan của bản thân tôi thì kinh nghiệm sáng kiến này có thể áp dụng và phổ biến nhằm nâng cao nhất lượng cho học sinh về việc giải toán phần phân số ở lớp 4 và kiến thức toán 5 có liên quan.
* Kiến nghị : 
Hiện nay việc dạy học môn toán đang là một việc khó đối với giáo viên, nhất là về mặt phương pháp giảng dạy. Tôi tha thiết mong các cấp lãnh đạo thường xuyên tổ chức các chuyên đề bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cũng như biện pháp dạy học toán để tôi được giao lưu học hỏi với những sáng kiến hay, những kinh nghiệm quý báu của đồng nghiệp giúp cho việc dạy và học đạt hiệu quả cao, nâng cao chất lượng dạy học toán nói chung đáp ứng được yêu cầu của xã hội giao phó, sự kì vọng của cha mẹ học sinh và nhà trường.
 Vĩnh Phú, ngày 15 tháng 5 năm 2009
 Người viết 
 Tống Mạnh Hùng 

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN ve phan so lop 4 hay.doc