ĐỀ SỐ 1 ĐỀ KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 MÔN: TIẾNG VIỆT – LỚP 4 I. Đọc thầm và làm bài tập: (6 điểm) Đọc đoạn văn sau: NGÀY LÀM VIỆC CỦA TÍ Trời tờ mờ sáng, trong nhà còn tối om. Bố đã thức giấc. Tí cũng thức giấc, cựa mình. Bố bảo: – Hôm nay, Tí đi chăn nghé nhá! Năm nay, Tí chín tuổi. Tí là cậu bé học sinh trường làng. Từ trước đến nay, ở nhà, Tí chưa phải làm công việc gì. Thỉnh thoảng, bố sai đi lấy cái điếu cày hoặc u giao phải đuổi đàn gà đừng để nó vào buồng mổ thóc. Tí chưa chăn nghé bao giờ. U lại nói tiếp: – Con chăn cho giỏi, rồi hôm nào u đi chợ, u mua vở cho mà đi học. Bố mở gióng dắt nghé ra. Bố dặn: – Nhớ trông, đừng để nghé ăn mạ đấy. – Vâng. Tí cầm dây kéo, con nghé cứ chúi mũi xuống. Tí thót bụng, cố hết sức lôi con nghé ra cổng. Ra đến ngã ba, Tí dừng lại. Phía cổng làng, các cô chú xã viên kéo ra ùn ùn. Có người nhận ra Tí cất tiếng gọi: – Đi nhanh lên, Tí ơi! Mọi người quay nhìn, cười vang, đua nhau gọi Tí. Tí chúm miệng cười lỏn lẻn. Phải đi cho kịp người ta chứ! Tí dắt nghé men theo bờ ruộng còn con nghé ngoan ngoãn theo sau, bước đi lon ton trên bờ ruộng mấp mô. Cái bóng dáng Tí lũn cũn thấp tròn. Tí đội cái nón quá to đối với người, trông như cây nấm đang di động. Theo Bùi Hiển - U: mẹ (gọi theo nông thôn miền Bắc) - Xã viên: nông dân làm việc trong hợp tác xã nông nghiệp. - Nghé: con trâu còn nhỏ Câu 1. Sáng nay, bố giao cho Tí công việc gì? (0,5 điểm) A. Lấy điếu cày cho bố. B. Dắt nghé ra khỏi cổng. C. Đi chăn nghé. D. Đuổi gà ăn vụng thóc. Câu 2. Nhìn Tý dắt nghé, mọi người đã làm gì? (0,5 điểm) A. Mọi người khuyên Tí quay về nhà. B. Mọi người chạy đến dắt nghé giúp Tí. C. Mọi người quay nhìn, cười vang đua nhau gọi Tí. D. Mọi người thản nhiên nhìn Tí và không nói gì. Câu 3. Câu chuyện khuyên các bạn nhỏ điều gì? (0,5 điểm) A. Nên tập đi chăn nghé. B. Nên phụ giúp ba mẹ những việc phù hợp với độ tuổi của mình. C. Nên ăn nhiều để khỏe mạnh, có sức kéo nghé. D. Nên làm những công việc mới lạ, chưa từng làm bao giờ. Câu 4. Gạch chân vào thành phần thứ hai trong đoạn văn sau: (1 điểm) Lương Định Của là một nhà nông học xuất sắc và là cha đẻ của nhiều giống cây trồng mới... Ông là người đầu tiên ứng dụng một cách sáng tạo các kĩ thuật canh tác của nước ngoài vào việc trồng lúa ở Việt Nam. Theo Minh Chuyên Câu 5. Gạch chân vào các tính từ có trong đoạn văn sau: (1 điểm) Nơi đây cất lên những tiếng chim ríu rít. Chúng từ các nơi trên miền Trường Sơn bay về. Chim đại bàng chân vàng mỏ đỏ đang chao lượn, bóng che rợp mặt đất. Mỗi lần đại bàng vỗ cánh lại phát ra những tiếng vi vu vi vút từ trên nền trời xanh thẳm, giống như có hàng trăm chiếc đàn đang cùng hoà âm. Bầy thiên nga trắng muốt chen nhau bơi lội (Trích “Chim rừng Tây Nguyên”) Câu 6. Em hãy sử dụng dấu ngoặc đơn để viết lại các câu sau: (1 điểm) a. Chim sâu còn gọi là chích bông xuất hiện nhiều vào mùa lúa chín. Đây là loài chim có ích cho nhà nông vì thức ăn chính của chúng là sâu. ................................................................................................................................. .. b. Khẩu phần ăn của cú tuyết Bắc Cực chủ yếu là những con chuột Lơ-min một loại động vật gặm nhấm nhỏ sống ở vùng khí hậu lạnh giá. ................................................................................................................................. .. Câu 7. Em hãy tìm chủ ngữ của mỗi câu sau và đặt câu hỏi cho bộ phận vừa tìm được: (1,5 điểm) a) Ông lão ăn xin rên rỉ cầu xin cứu giúp. ................................................................................................................................. b) Tôi chạy nhanh hơn Lan. ................................................................................................................................. c) Con chim kêu “túc...túc...” không ngớt. ................................................................................................................................. ĐỀ SỐ 2 ĐỀ KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 MÔN: TIẾNG VIỆT – LỚP 4 I. Đọc thầm và làm bài tập: (6 điểm) Đọc đoạn văn sau: ANH HÙNG THỰC SỰ Có một ông lão sống cùng ba người con trai. Cả ba đều khỏe mạnh, giỏi giang. Biết mình sắp đến ngày vĩnh biệt cõi đời, ông gọi các con lại và nói: – Ta có ba con nhưng chỉ có một viên kim cương làm báu vật từ nhiều đời để lại. Bây giờ, các con hãy đi, rồi về sau một tuần. Khi đó cha sẽ trao cho người xứng đáng nhất. Đúng một tuần sau, họ trở về. Người con cả báo với cha: anh đã mang một nửa tài sản của mình chia cho những ngươi nghèo khổ. Người con thứ hai kể anh đã cứu một bé gái sắp chết đuối. Ông lão tỏ vẻ rất hạnh phúc. Ông trìu mến nhìn sang người con thứ ba: – Còn con, con mang được gì về? Anh thưa: – Con thấy một người đàn ông say rượu nằm bên bờ vực sâu. Chỉ một cử động nhỏ cũng có thể làm anh ta rơi xuống vực. Con đã xốc anh ta ra khỏi chỗ đó. Cha biết đó là ai không? Là San-chô, kẻ thù của gia tộc ta. Đã có vài lần, anh ta đe dọa sẽ giết con, nếu có cơ hội. San-chô tỉnh dậy, nhìn con đăm đăm. Rồi chúng con khoác tay nhau cùng về. Bây giờ, con đã hiểu mỗi người xung quanh ta đều có thể làm bạn, dù trước đó là kẻ thù. Ông lão cầm viên kim cương đặt vào tay người con thứ ba và nói: – Con quả là một người anh hùng thật sự, con trai ạ! (Theo Báo Thiếu niên Tiền phong) Câu 1. Lúc sắp mất, ông lão nói sẽ trao viên kim cương cho ai? (0,5 điểm) A. Người con mà ông thấy xứng đáng nhất. B. Người con trai cả của ông. C. Người con út của ông. D. Những người nghèo khổ. Câu 2. Tại sao ông cụ xem người con trai thứ ba là “người anh hùng thực sự’’? (0,5 điểm) A. Anh đã cứu người đàn ông say rượu khỏi bị rơi xuông vực sâu. B. Anh là một người cao thượng, biết vượt qua lòng hận thù. C. Anh biết nhường nhịn không kể lể, không tranh giành. D. Anh đã chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Câu 3. Theo em câu chuyện muốn gửi gắm điều gì tới bạn đọc? (0,5 điểm) A. Phải biết đem tài sản của mình chia sẻ cho người nghèo khổ. B. Phải can đảm, chiến thắng nỗi sợ hãi để cứu người bị tai nạn. C. Phải biết sống cao thượng, biết tha thứ, biết thêm bạn bè bớt thù. D. Phải biết cứu trợ và giúp đỡ người nghèo khổ. Câu 4. Em hãy tìm lời nói trực tiếp trong đoạn văn sau: (1 điểm) Bác tự cho mình là “người lính vâng lệnh quốc dân ra mặt mặt trận”, là “đầy tớ trung thành của nhân dân”. Ở Bác, lòng yêu mến nhân dân đã trở thành một sự say mê mãnh liệt. Bác nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.” ................................................................................................................................. Câu 5. Dùng dấu “/” để ngăn cách hai thành phần chính trong các câu sau và ghi “CN” dưới chủ ngữ, “VN” dưới vị ngữ: (1 điểm) a) Phố tôi có một cây bàng. ................................................................................................................................. b) Trong vòm lá, gió chiều gảy lên những điệu nhạc li kì tưởng chừng như ai đang cười đang nói. ................................................................................................................................. Câu 6. Viết mỗi từ in đậm trong đoạn văn dưới đây vào nhóm thích hợp: (1 điểm) Núi Hàm Rồng nằm ngay sát cạnh thị trấn Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Ngọn núi này tuy không quá cao nhưng nếu đứng trên đỉnh núi, du khách sẽ ngắm được toàn cảnh Sa Pa, thung lũng Mường Hoa, Sa Pả, bản Tả Phìn ẩn hiện trong sương khói đầy vẻ mờ ảo. Đặc biệt ngày nay, nó thực sự được xem như một thắng cảnh đầy hoa trái. (Theo Nguyên Vy) - Danh từ chung: ..................................................................................................... ................................................................................................................................. - Danh từ riêng: ...................................................................................................... ................................................................................................................................. Câu 7. Dựa vào bức tranh dưới đây, em hãy đặt một câu có sử dụng trạng ngữ chỉ thời gian và một câu có sử dụng trạng ngữ chỉ nơi chốn: (1,5 điểm) ................................................................................................................................. ĐỀ SỐ 3 ĐỀ KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 MÔN: TIẾNG VIỆT – LỚP 4 I. Đọc thầm và làm bài tập: Đọc đoạn văn sau: SỰ TÍCH HỒ BA BỂ Ngày nọ, ở xã Nam Mẫu thuộc tỉnh Bắc Kạn, người ta mở hội. Mọi người đều nô nức đi xem. Bỗng một bà lão ăn xin xuất hiện. Ai cũng xua đuổi bà vì trông bà rất gớm ghiếc. May sao, bà gặp được hai mẹ con người nông dân đi chợ về. Thấy bà lão tội nghiệp quá, người mẹ bèn đưa bà cụ về nhà, cho bà cụ ăn rồi mời nghỉ lại. Khuya hôm đó, người mẹ bỗng thấy chỗ bà cụ nằm sáng rực lên, lấy làm sợ hãi lắm. Sáng hôm sau tỉnh dậy, hai mẹ con thấy không có gì lạ. Bà cụ ăn xin đang sửa soạn ra đi. Bà lão nói với hai mẹ con: “Vùng này sắp có lụt lớn. Ta cho mẹ con chị gói tro này, nhớ rắc xung quanh nhà mới tránh được nạn.”. Rồi bà cụ liền nhặt một hạt thóc, cắn vỡ ra, đưa vỏ trấu cho hai mẹ con và nói: “Hai mảnh vỏ trấu này sẽ giúp hai mẹ con nhà chị lúc cần.”. Nói rồi, bà lão biến mất. Tối hôm đó, giữa lúc đám hội đang náo nhiệt thì bỗng có một cột nước từ dưới đất phun lên. Nước dâng lên cao, nhấn chìm toàn bộ nhà cửa, làng mạc. Chỉ có ngôi nhà của hai mẹ con cứ dần cao hơn nước. Đau xót vì thấy dân làng bị chìm trong lũ lụt, hai mẹ con liền lấy hai mảnh vỏ trấu thả xuống nước. Lạ thay, hai mảnh vỏ trấu lập tức biến thành hai chiếc thuyền lớn. Hai mẹ con vội chèo thuyền đi khắp nơi cứu dân làng. Khu làng bị nước ngập hoá thành ba cái hồ rộng lớn, người ta gọi là hồ Ba Bể. Còn cái nền nhà của hai mẹ con chính là một hòn đảo nhỏ giữa hồ. (Theo Truyện dân gian Việt Nam) Câu 1. Hai mẹ con người nông dân đã làm gì để giúp bà cụ? (0,5 điểm) A. Cho bà ăn, mời nghỉ lại, thắp sáng chỗ nằm. B. Đưa bà vụ về, cho ăn, mời nghỉ lại, mời dự hội. C. Cho bà cụ gói tro và hai mảnh vỏ trấu. D. Đưa bà cụ về, cho ăn, mời nghỉ lại. Câu 2. Hai mẹ con người nông dân đã làm gì để cứu người dân bị lụt? (0,5 điểm) A. Rắc tro xung quanh nhà. B. Đan thuyền cứu lụt. C. Cắn hai mảnh trấu thả xuống nước. D. Chèo thuyền đi cứu dân làng. Câu 3. Nội dung của câu chuyện trên là gì? (0,5 điểm) A. Ca ngợi những người nông dân tốt bụng ở xã Nam Mẫu, tỉnh Bắc Kạn. B. Giải thích sự tích hồ Ba Bể. C. Hướng dẫn cách dự đoán thiên tai. D. Hướng dẫn cách cứu lụt cho người dân. Câu 4. Xác định trạng ngữ, chủ ngữ, vị ngữ trong câu sau và cho biết trạng ngữ đó bổ sung thông tin gì cho câu: (1 điểm) Mùa xuân, cây gạo gọi đến bao nhiêu là chim ríu rít. ................................................................................................................................. Câu 5. Em hãy tìm ra những sự vật được nhân hóa trong câu dưới đây và cho biết chúng được nhân hóa bằng cách nào? (1 điểm) Từ đó, lão Miệng, bác Tai, cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay lại thân mật sống với nhau, mỗi người một việc, không ai tị ai cả. (Truyện Ngụ ngôn) ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. .. Câu 6. Em hãy đặt một câu có vị ngữ nêu hoạt động: (1 điểm) ................................................................................................................................. Câu 7. Em hãy viết đoạn văn ngắn (4 – 6 câu) tóm tắt nội dung của một văn bản đã học, trong đó có sử dụng dấu ngoặc kép để đánh dấu tên tác phẩm: (1,5 điểm) ................................................................................................................................. . ................................................................................................................................. .. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ............................................................................................................................. .. ĐỀ SỐ4 ĐỀ KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 MÔN: TIẾNG VIỆT – LỚP 4 I. Đọc thầm và làm bài tập: Đọc đoạn văn sau: CỔ TÍCH VIẾT BẰNG CHÂN Những trang vở đỏ chói điểm 9, 10 với những dòng chữ tròn, đều, thẳng tắp – ít ai có thể ngờ rằng những dòng chữ đó được viết không phải bởi tay mà là bằng chân: một đôi chân kì diệu của bạn Nguyễn Minh Phú, lớp 5B, trường Tiểu Học Hồ Tông Thốc, xã Thọ Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Cô Nguyễn Thị Bình – mẹ của Phú – không thể nào quên được cái ngày 17 – 7 – 1990 ấy. Cô đã ngất xỉu khi nhìn thấy đứa con vừa chào đời của mình: một hài nhi yếu ớt, nhỏ bé và thiếu hẳn đôi cánh tay. Nhưng Phú đã lớn lên và có ý thức tự lập từ rất sớm, tập làm mọi việc bằng đôi chân của mình. Mỗi sáng ngủ dậy, Phú dùng chân kẹp bàn chải đánh răng và lấy khăn rửa mặt. Với đôi chân của mình, Phú không chỉ tự ăn cơm, mặc quần áo, mắc màn, xếp chăn, tắt mở công tắc điện, mà còn giúp bố mẹ làm nhiều việc vặt trong nhà, từ bóc ngô, nhặt rau, đun bếp, quét nhà cho đến việc xâu kim chỉ cho mẹ vá quần áo. Một lần, Phú mon men đến lớp học, say sưa nhìn cô giáo giảng bài, nhìn lũ bạn ê a đánh vần, tập viết, Về nhà, Phú lấy viên phấn kẹp vào chân, viết những chữ nguệch ngoạc trên nền gạch. Khi biết đọc thông, viết thạo, Phú nằng nặc đòi cha mẹ cho đi học. Cô giáo chủ nhiệm dành cho Phú một chiếc ghế để Phú đặt vở lên đấy, xoay ngang người, kê chân lên và cặp bút viết. Cứ như thế, Phú cần cù chịu đau, chịu khó, dù cho vào những ngày nóng nức, mồ hôi nhỏ xuống nhòe hết cả trang vở, còn về mùa đông thì bàn chân tê cóng vì lạnh, điều khiển cây bút cực kì khó khăn. Có những hôm, do viết quá nhiều, Phú bị chuột rút khiến các ngón chân co quắp, cứng đờ. Vất vả, khổ sở là thế nhưng Phú không hề nản lòng, chưa hề nghỉ một buổi học nào. Điều đáng nói là Phù viết rất đẹp và đặc biệt là tiếp thu bài vở rất nhanh. Suốt bốn năm học qua, Phú luôn là người dẫn đầu lớp về thành tích học tập. Phú rất có khả năng về môn toán, trong vở chỉ toàn điểm 9, 10. Năm 2002, Phú đoạt giải “vở sạch chữ đẹp” của huyện. Mơ ước của Phú là trở thành một người phiên dịch, vì theo bạn, đó là công việc thích hợp nhất đối với một người không có tay như Phú. Nhìn gương mặt thông minh với đôi mắt sáng, kiên quyết của Phú, tôi tin rằng Phú sẽ học thành tài, sẽ thực hiện được ước mơ của mình. Theo Báo Thiếu niên Tiền phong Câu 1. Phú đã gặp những khó khăn gì khi tập viết bằng chân? (0,5 điểm) A. Mùa hè, mồ hôi nhỏ xuống làm nhòe vở, mùa đông, chân tê cứng vì lạnh. B. Hay bị chuột rút khiến các ngón chân co quắp, cứng đờ. C. Viết không tròn chữ. D. Ý A và B đúng. Câu 2. Phú đã đoạt được những thành tích gì trong học tập? (0,5 điểm) A. Đoạt giải Học sinh giỏi toán. B. Đoạt giải thi đấu thể thao. C. Là người dẫn đầu lớp về thành tích học tập, rất giỏi toán, đoạt giải “ vở sạch chữ đẹp”. D. Đoạt giải Học sinh giỏi tiếng việt. Câu 3. Nội dung câu chuyện này là gì? (0,5 điểm) A. Ca ngợi bạn Nguyễn Minh Phú giàu nghị lực mặc dù thiếu hẳn đôi tay nhưng vẫn chăm làm, học giỏi và viết chữ đẹp. B. Ca ngợi đôi bàn chân khéo léo của bạn Nguyễn Minh Phú. C. Ca ngợi tài viết chữ đẹp của bạn Nguyễn Minh Phú. D. Ca ngợi trí thông minh, tài năng của bạn Nguyễn Minh Phú. Câu 4. Em hãy sử dụng dấu ngoặc kép để viết lại các câu sau: (1 điểm) a. Nhóm em đã chia sẻ về bài đọc Độc đáo tháp nghiêng Pi-sa, Bí ẩn Kim tự tháp Ai Cập,... ................................................................................................................................. b. Tài liệu Hướng dẫn trồng và chăm sóc cây cảnh, Kĩ thuật trồng cây cảnh,... đã giúp ông có vườn cây mà nhiều người mong ước. ................................................................................................................................. Câu 5. Em hãy tìm chủ ngữ hoặc vị ngữ phù hợp thay cho mỗi bông hoa sau: (1 điểm) Mùa xuân . chiếu xuống mặt đất. hòa giọng hót véo von. Những khóm hoa . Câu 6. Em hãy điền đúng (Đ) hoặc sai (S) vào các ô trống sau: (1 điểm) Trường tiểu học Xuân Hòa Tổ chức Cứu trợ Trẻ em Việt Nam Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh Câu 7. Em hãy viết đoạn văn ngắn (từ 4 – 5 câu) nói về sở thích hoặc ước mơ của em, trong đó có sử dụng trạng ngữ: (1,5 điểm) ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. Bài làm tham khảo Em luôn dành tất cả tình yêu thương, kính trọng nhất dành cho người mẹ yêu dấu của mình. Năm nay mẹ em đã ba mươi lăm tuổi rồi. Mẹ là một người nông dân chân chất thật thà. Quanh năm mẹ gắn liền với ruộng vườn, ao cá. Tuy vất vả, cực nhọc là vậy, mẹ vẫn luôn cố gắng dành những thứ tốt đẹp nhất cho em. Đó không chỉ là những bữa cơm ngon, những chiếc áo đẹp. Mà còn là là những cử chỉ yêu thương, ánh mắt quan tâm, sự hi sinh vô bờ bến. Tình thương yêu mà em dành cho mẹ chẳng có gì có thể đong đếm được. Nhiều lúc, chỉ cần nhìn thấy mẹ thôi, là những lo âu, thấp thỏm trong lòng em sẽ bình yên trở lại. Và chỉ cần được mẹ ôm vào lòng, xoa nhẹ lên mái tóc, thì niềm vui sướng, hạnh phúc sẽ nhân lên gấp bội. Lúc nào em cũng không ngừng nhắn nhủ bản thân nỗ lực hơn nữa để có thể trở thành con ngoan, trò giỏi, thành một niềm tự hào nhỏ của mẹ, để mẹ có thể luôn mỉm cười khi nghĩ về em. ĐỀ SỐ 5 ĐỀ KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 I. Đọc thầm và làm bài tập: (6 điểm) Đọc đoạn văn sau: “PHÁT MINH” TỪ RÃNH NƯỚC Nhà nghèo, đi làm thuê nhổ cỏ, cắt lúa nhiều hơn ngồi học, thế mà “đùng một cái”, Lê Thế Trung (lớp 11M3, trường Trung học phổ thông Mỹ Hưng, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng) đoạt giải Nhì Quốc gia cuộc thi “Cải thiện việc sử dụng và bảo vệ nguồn nước”. Tin ấy đã làm xôn xao không chỉ ở một xã vùng sâu. Chính cái tính “gặp cái lạ thì thắc mắc, tìm hiểu” đã giúp Trung đoạt giải Nhì trong cuộc thi cấp quốc gia này. Nhà dì của Trung nuôi trên cả chục con heo, mỗi lần qua cắt rau muống cho heo ăn, Trung để ý thấy rãnh nước cạnh chuồng heo nhà dì ít hôi và trong hơn nhiều so với rãnh nước cạnh chuồng heo nhà mình, mặc dù số lượng heo nhà dì gấp hàng chục lần heo nhà Trung. Quan sát, Trung thấy nguyên nhân dẫn tới điều khác nhau này chính là rãnh nước nhà dì có rất nhiều cây thủy trúc và rau chai, còn rãnh nước nhà mình thì không. Trung tức khắc trồng cây thủy trúc và rau chai ở rãnh nước nhà mình. Thực tế đã chứng minh những điều Trung nghi ngờ là đúng. Để kiểm chứng một lần nữa cho chắc ăn, Trung mượn trường một số dụng cụ thí nghiệm. Đúng một tuần, Trung hồi hộp kiểm tra kết quả, và “nhà nghiên cứu” rất vui mừng với kết quả thu được. Trung nghĩ, hiện diện tích nuôi trồng thủy sản ở Đồng bằng sông Cửu Long rất lớn, nếu đem những điều mình đã khám phá ứng dụng vào cuộc sống thì sẽ giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi trường. Trung làm một bể chứa nước thải và bể này được hút bùn định kì. Nước thải sẽ chảy ra mương trồng rau dừa, rau ngổ, sau đó tiếp tục sang mương trồng thủy trúc, rau chai trước khi đổ ra sông... Từ thành công ở nhà mình, Trung đi phổ biến cho bà con ở khắp xã để mọi người làm theo. Cùng lúc đó, Trung hay tin Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Sóc Trăng tổ chức cuộc thi nên đã gửi đề tài “Dùng thủy trúc, rau chai xử lí nước thải trong sinh hoạt” dự thi. Và đề tài của cậu đã đoạt giải Nhất. Trung tâm sự: “Cuộc sống xung quanh mình có rất nhiều cái hay, cái lạ. Trung sẽ cố gắng tìm tòi, “giải mã” những điều đó để phục vụ cho cuộc sống. Trung sẽ cố gắng học để trở thành một kĩ sư nông nghiệp, đem những điều mình đã học để giúp bà con nông dân quê mình”.
Tài liệu đính kèm: