Chuyên đề Phương pháp giảng dạy phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4

Chuyên đề Phương pháp giảng dạy phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4

PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU Ở LỚP 4

I. LÝ DO CHỌN CHUYÊN ĐỀ :

Môn tiếng việt trong chương trình bậc tiểu học nhằm hình thành và phát triển giúp học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Giúp học sinh có cơ sở tiếp thu kiến thức ở các lớp trên. Trong bộ môn Tiếng Việt phân môn luyện từ và câu có nhiệm vụ cung cấp nhiều kiến thức sơ giản về viết Tiếng Việt và rèn luyện kỹ năng dùng từ đặt câu (nói - viết) kỹ năng đọc cho học sinh. Cụ thể là:

1- Mở rộng hệ thống hoá vốn từ, trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về từ và câu.

2- Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu.

3- Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu, có ý thức sử dụng Tiếng Việt văn hoá trong giáo tiếp.

Nhận thức rõ được tầm quan trọng của phân môn, tôi mạnh dạn nghiên cứu chuyên đề “Phương pháp giảng dạy phân môn luyện từ và câu ở lớp 4''

 

doc 8 trang Người đăng hoaithu33 Lượt xem 3329Lượt tải 4 Download
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Phương pháp giảng dạy phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO ĐẠI LỘC
TRƯỜNG TIỂU HỌC TRẦN PHƯỚC 
=============
CHUYÊN ĐỀ KHỐI 4
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 
PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU Ở LỚP 4
	Giáo viên: Nguyễn Thị Xanh
	Năm học: 2009 -2010	
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 
PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU Ở LỚP 4
I. LÝ DO CHỌN CHUYÊN ĐỀ :
Môn tiếng việt trong chương trình bậc tiểu học nhằm hình thành và phát triển giúp học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Giúp học sinh có cơ sở tiếp thu kiến thức ở các lớp trên. Trong bộ môn Tiếng Việt phân môn luyện từ và câu có nhiệm vụ cung cấp nhiều kiến thức sơ giản về viết Tiếng Việt và rèn luyện kỹ năng dùng từ đặt câu (nói - viết) kỹ năng đọc cho học sinh. Cụ thể là: 
1- Mở rộng hệ thống hoá vốn từ, trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về từ và câu. 
2- Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu. 
3- Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu, có ý thức sử dụng Tiếng Việt văn hoá trong giáo tiếp. 
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của phân môn, tôi mạnh dạn nghiên cứu chuyên đề “Phương pháp giảng dạy phân môn luyện từ và câu ở lớp 4''
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN 
1. Thuận lợi 
- Nhà trường luôn tạo điều kiện cho công tác thay sách đạt kết quả tốt, đội ngũ giáo viên được học chương trình mới, phương pháp dạy học mới ngay từ đợt đầu. Có tay nghề, đầy đủ SGK, sách hướng dẫn và được học về sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại. Đội ngũ giáo viên yêu nghề, có năng lực sư phạm.
- Phân môn luyện từ và câu của lớp 4 nhìn chung ngắn gọn, cụ thể đã được bớt nhiều so với chương trình Từ ngữ - ngữ pháp của lớp 4 cũ, phân môn chỉ rõ 2 dạng bài: Bài lý thuyết và bài tập thực hành với định hướng rõ ràng.
- Học sinh đã quen với cách học mới từ lớp 1, 2, 3 nên các em đã biết lĩnh hội và luyện tập thực hành dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
- Sự quan tâm của phụ huynh học sinh cũng góp phần nâng cao chất lượng môn học nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung. 
- Các em học sinh đều được học 2 buổi/ngày. Buổi sáng học lý thuyết và buổi chiều được luyện tập củng cố để khắc sâu kiến thức. Từ đó giúp các em có khả năng sử dụng thành thạo các bài tập thực hành và áp dụng linh hoạt vào các phân môn khác. 
2. Khó khăn 
 - Bên cạnh đó, học sinh với lối tư duy cụ thể, một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến con em mình còn có quan điểm '' trăm sự nhờ nhà trường, nhờ cô'' cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập bộ môn. 
III. NÔI DUNG CHƯƠNG TRÌNH. 
Học kỳ I: 5 chủ điểm 
Chủ điểm 1: Thường người như thể thương thân - "Nhân hậu - Đoàn kết''
Chủ điểm 2: Trung thực - Tự trọng 
Chủ điêm 3: Trên đôi cánh ước mơ thực hiện ước mơ. 
Chủ điểm 4: Có chí thì nên - nghị lực - ý chí 
Chủ điểm 5: Tiếng sáo diều - đồ chơi - Trò chơi. 
Học kỳ II: 5 chủ điểm 
Chủ điểm 1: Người ta là hoa là đất - tài năng - sức khoẻ 
Chủ điểm 2: Vẻ đẹp muôn màu - Cái đẹp 
Chủ điểm 3: Những người quả cảm - Dũng cảm 
Chủ điểm 4: Khám phá thế giới - Du lịch - Thám hiểm 
Chủ điểm 5: Tình yêu cuộc sống - Lạc quan yêu đời 
IV. PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 
Phương pháp gợi mở vấn đáp 
Phương pháp gợi mở vấn đáp là phương pháp dạy học không trực tiếp đưa ra những kiến thức đã hoàn chỉnh mà hướng dẫn cho học sinh tư duy từng bước một để các em tự tìm ra kiến thức mới phai học. 
Phương pháp gợi mở vấn đáp nhằm tăng cường kĩ năng suy nghĩ sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức và xác định mức độ hiểu bài cũng như kinh nghiệm đã có của học sinh. Giúp các em hình thành khả năng tự lực tìm tòi kiến thức. Qua đó học sinh ghi nhớ tốt hơn sâu sắc hơn. 
Yêu cầu khi sử dụng giáo viên phải lựa chọn những câu hỏi theo đúng nội dung bài học, câu hỏi đưa ra phải rõ ràng, dễ dàng phù hợp với mọi đối tượng học sinh trong cùng 1 lớp. Giáo viên dành thời gian cho học sinh suy nghĩ. Sau đó cho học sinh trả lời, các em khác nhận xét bổ sung. Phương pháp này phù hợp với cả 2 loại bài lý thuyết, thực hành. 
VD: Khi dạy bài danh từ (Tuần 5) mục địch của bài là học sinh phải nằm được danh từ là gì - Biết tìm danh từ trừu tượng trong đoạn văn và đặt câu với danh từ đó. 
- Đưa VD: 
Mang theo chuyện cổ tôi đi
Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa
Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa
Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi
Đời cha ông với đời tôi
Như con sông với chân trời đã xa
Chỉ còn truyện cổ thiết tha
Cho tôi nhận mặt ông cha của mình.
+ Hỏi: Em tìm những TN chỉ sự vật trong đoạn thơ ? 
Dòng 1: Truyện cổ 	Dòng 5: Đời, cha ông 
Dòng 2: Cuộc sống, tiếng xưa 	Dòng 6: Con sông, chân trời 
Dòng 3: Cơn nắng, cơn mưa 	Doàng 7: Truyện cổ 
Dòng 4: Con sống, rặng dừa. 	Dòng 8: Ồng cha 
+ HS Sắp xếp các từ vừa tìm được theo nhóm 
- Từ chỉ người	 : Ông cha - Cha ông 
- Từ chỉ vật	: sông, dừa, chân trời 
- Từ chỉ hiện tượng	: mưa, nắng 
- Từ chỉ khái niệm	: Cuộc sống, truyện cổ, tiếng xưa, đời 
- Từ chỉ đơn vị	: Cơn, con, rặng 
+ Hỏi: Những từ đó thuộc loại từ gì? (danh từ)
+ Hỏi: Vậy danh từ là gì? (Danh từ là những từ chỉ sự vật: người, vật, hiện tượng, khái niệm hoặc đơn vị) 
Vậy qua 4 câu hỏi gợi mở cho các em đã kết thúc một khái niệm ngữ pháp mà nội dung của bài đề ra. 
* Tóm lại phương pháp gợi mở vấn đáp được sử dụng trong tất cả tiết học và phát huy được tính chủ động sáng tạo của học sinh. 
2. Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề. 
Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề là giáo viên đưa ra những tình huống gợi vấn đề, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề hoạt động tự giác, chủ động và sáng tạo để giải quyết vấn đề thông qua đó mà kiến tạo tri thức rèn luyện kỹ năng. 
Tăng thêm sự hiểu biết và khả năng áp dụng lý thuyết vào giải quyết vấn đề của thực tiến. Nâng cao kỹ năng phân tích và khái quát từ tình huống cụ thể và khả năng độc lập cũng như khả năng hợp tác trong quá trình giải quyết vấn đề. 
Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên cần chuẩn bị trước câu hỏi sao cho phù hợp với mục đích, yêu cầu và nội dung của bài đảm bảo tính sư phạm, đáp ứng với các đối tượng học sinh, giáo viên cần chuẩn bị tốt kiến thức để giải quyết vấn đề mà học sinh đưa ra. 
VD: Khi dạy bài mở rộng vốn từ ''Đồ chơi - trò chơi'' Giáo viên đưa ra một số thành ngữ - tục ngữ sau: ''Chơi với lửa'', ''ở chọn nơi, chơi chọn bạn'', ngữ thích hợp để khuyên bạn.
a. Nếu bạn em chơi với một số bạn hư nên học kém hẳn đi. 
b. Nếu bạn em thích trèo lên một chỗ cao chênh vênh, rất nguy hiểm để tỏ ra mình gan dạ. 
Với tình huống (1) các em có thể chọn thành ngữ tục ngữ ''ở chọn nơi, chơi chọn bạn''. Những với tình huống (2) các em có thể chọn 1 hoặc 2 thành ngữ tục ngữ đều được.
* Tóm lại: Với phương pháp này giáo viên nên hiểu rằng trong cùng tình huống sẽ có thể có nhiều cách giải quyết để ứng dụng trong học tập, trong cuộc sống. 
3. Phương pháp trục quan 
Phương pháp trực quan là phương pháp dạy học trong đó giáo viên sử dụng các phương pháp nhằm giúp học sinh có biểu tượng đúng về sự vật và thu nhận được kiến thức, rèn luyện kỹ năng theo nội dung bài học một cách thuận lợi. 
Thu hút sự chú ý và giúp học sinh ghi nhớ bài tốt hơn, học sinh có thể khái quát nội dung bài và phát hiện liên hệ của các đơn vị kiến thức.
Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát theo nội dung cần truyền đạt. 
VD: Khi dạy bài ''Đồ chơi - trò chơi'' giáo viên đưa ra 6 bức tranh trong SGK để tìm ra các từ ngữ chỉ tên đồ chơi - trò chơi mà các em được mở rộng trong bài học. 
Bức tranh 1: học sinh tìm từ đồ chơi: diều -Trò chơi : thả diều 
Bức tranh 2: từ chỉ đồ chơi: ''dây'', nồi xoong'',''búp bê'' - ''trò chơi'''' nấu ăn'', ''cho bé ăn bột'',''nhảy dây''.
*Tóm lại: Sử dụng phương pháp trực quan giảng dạy phân môn luyện từ và câu là rất quan trọng vì sẽ khai thác triệt để các kênh hình của bài học nhờ đó mà giáo viên giúp học sinh nắm bài tốt hơn. 
4. Phương pháp rèn luyện theo mẫu
Phương pháp rèn luyện theo mẫu là phương pháp dạy học mà giáo viên đưa ra cá mẫu cụ thể qua dó hướng dẫn học sinh tìm hiểu các điểm của mẫu, cơ chế tạo mẫu và thực hiện theo mẫu. 
Giúp học sinh có điểm tựa để làm bài, đặc biệt là với học sinh trung bình và yếu còn đối với học sinh khá giỏi không bắt buộc phải theo mẫu để học sinh phát huy tính tích cực chủ động.
5. Phương pháp phân tích 
Đây là phương pháp dạy học trong đó học sinh dưới sự hướng dẫn tổ chức của giáo viên tiến hành tìm hiểu các dấu hiệu theo định hướng bài học từ đó rút ra bài học.
Giúp học sinh tìm tòi huy động vốn kiến thức cũ của mình để tìm ra kiến thức mới. 
Tạo điều kiện cho học sinh tự phát hiện kiến thức (về nội dung và hình thức thể hiện) 
VD: Khi dạy ''Câu hỏi và dấu chấm hỏi'' 
B1: Cho học sinh tìm các câu hỏi trong bài tập đọc ''Người tìm đường tới các vì sao''. Các em sẽ tìm được 2 câu: 
1. Vì sao quả bóng không có cánh mà vẫn bay được?
2. Cậu làm thế nào mà mua được nhiều sách và dụng cụ thí nghiệm như thế?
Phân tích: 
H: Câu hỏi (1) là của ai? (Xi - ôn - cốp - xki tự hỏi mình) 
H: Câu hỏi (2) là của ai? (Bạn của Xi - ôn - cốp - xki hỏi) 
H: Dấu hiệu nào giúp em nhận ra đó là câu hỏi (cuối câu có dấu chấm) giáo viên: Khi đọc câu hỏi phải nhấn mạnh vào ý cần để hỏi.
Qua phân tích của giáo viên, học sinh rút ra đựơc bài học: 
1. Câu hỏi (còn gọi là câu nghi vấn) dùng để hỏi về những điều chưa biết. 
VD: Bạn đã đọc bài chưa? 
VD: Có phải Trái đất quay xung quanh Mặt Trời Không? 
VD: Chú đất trở thành chú Đất Nung phải không? 
VD: Bạn Hoa trở thành học sinh giỏi à? 
2. Phần lớn câu hỏi là để hỏi người khác nhưng cũng có những câu để tự hỏi mình. 
VD: Chiếc bút này mình đã mua ở đâu nhỉ? 
VD: Vì sao trái Đất lại quay nhỉ? 
VD: Thứ mấy là sinh nhất của mình nhỉ? 
3. Câu hỏi thường có các tư nghi vấn (có phải, không; phải không, à,....) 
Khi viết cuối câu hỏi có dấu chấm hỏi (?) 
VD: Có phải Trái đất quay xung anh mặt trời không? 
VD: Chú đất ở thành chú Đất Nung phải không?
VD: Bạn Hoa trở thành học sinh giỏi à?
* Tóm lại: Trên đây là một số phương pháp dạy học mà tôi áp dụng trong giảng dạy phân môn luyện từ và câu. Tuy nhiên tôi cũng nhận thấy rằng không có 1 phương pháp dạy học nào là tối ưu. Mỗi phương pháp thường có mặt mạnh - mặt yếu của nó, mặt mạnh của phương pháp này sẽ hỗ trợ cho mặt yếu của phương pháp kia. Cho nên để tránh nhàm chán cần phối kết hợp nhiều phương pháp giảng dạy phù hợp với nhiều đối tượng học sinh. Có như vậy tiết học mới đạt kết quả cao. 
II.QUY TRÌNH DẠY LUYỆN TỪ VÀ CÂU 
Dạy bài lí thuyết
Dạy bài thức hành
1. KTBC: (3-5') 
1. KTBC(3-5') 
2. Bài mới 
2. Bài mới 
a. GTB: 1’ 
a. GTB (1’) 
b. Hình thành KN: 10-12' 
b. Hướng dẫn thực hành (30-32') 
- Giáo viên sẽ phân tích ngữ liệu 
- Đọc và xác định yêu cầu của BT 
c. Hướng dẫn luyện tập: 18- 20' 
- Hướng dẫn 1 phần BT mẫu 
- Đọc và xác định yêu cầu của bài tập 
- Học sinh là BT 
- Hướng dẫn giải 1 phần bài tập mẫu 
- Chấm, chữa - nhận xét -> Chốt KT 
- Học sinh làm bài tập 
- Chấm, chữa, nhận xét -> chốt KT 
d. Củng cố -dặn dò (2-3') 
c. Củng cố - dặn dò (2-3') 
 Người viết
 Nguyễn thị Xanh

Tài liệu đính kèm:

  • docChuyen de Tieng Viet Xanh.doc