PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN TIÊN LÃNG Trang bìa 1 TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐOÀN LẬP HỘI THI GIÁO VIÊN DẠY GIỎI CẤP HUYỆN NĂM HỌC 2024 – 2025 BÁO CÁO BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC “MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VIẾT VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4” TÁC GIẢ: NGUYỄN NGỌC SANG Giáo viên trường: Tiểu học Đoàn Lập Huyện: Tiên Lãng Tổ chuyên môn: Khối 4 Tiên Lãng, tháng 11 năm 2024 1 MỤC LỤC STT Nội dung Trang 1 Lý do lựa chọn biện pháp 3 2 Đối tượng áp dụng 3 3 Mục tiêu của biện pháp 3 4 Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn để xây dựng biện pháp 3 5 Nội dung biện pháp 5 6 Các thức/quy trình thực hiện biện pháp 11 7 Tiến trình thực nghiệm 11 8 Đánh giá kết quả thực nghiệm 11 9 Bài học kinh nghiệm rút ra từ quá trình áp dụng biện pháp 12 10 Kiến nghị đề xuất để triển khai, ứng dụng biện pháp vào thực tiễn 12 của nhà trường. 2 I.MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn biện pháp Văn miêu tả là một trong những thể loại văn rất quen thuộc và phổ biến trong cuộc sống cũng như trong các tác phẩm văn học. Đây là loại văn có tác dụng rất lớn trong việc tái hiện đời sống, hình thành và phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát và khả năng nhận xét, đánh giá của con người. Với đặc trưng của mình, những bài văn miêu tả làm cho tâm hồn, trí tuệ người đọc thêm phong phú, giúp ta cảm nhận được văn học và cuộc sống một cách tinh tế hơn, sâu sắc hơn. Chính vì thế, văn miêu tả được đưa vào nhà trường từ rất lâu và ngay từ bậc Tiểu học. Đề tài của văn miêu tả với các em là những gì gần gũi, thân quen với thế giới trẻ thơ, các em có thể quan sát được một cách dễ dàng, cụ thể như: chiếc cặp, cái bàn, những vườn cây ăn quả mình yêu thích, những con vật nuôi trong nhà..... Đối với các em học sinh hiện nay có một số hạn chế khi làm bài văn miêu tả là: Ở Tiểu học, môn Tiếng Việt gồm nhiều phân môn như: Đọc, Luyện từ và câu, Nói và nghe, Đọc mở rộng. Trong các phân môn nói trên, có thể nói phân môn Viết có vị trí hết sức quan trọng. Dạy tốt phân môn này sẽ đáp ứng được kĩ năng viết của học sinh: viết đúng và hay. Việc học các bài văn miêu tả sẽ giúp các em có tâm hồn, trí tuệ phong phú hơn, giúp các em cảm nhận được sự vật xung quanh tinh tế và sâu sắc hơn. Do đó, việc hướng dẫn các em cách làm văn miêu tả có ý nghĩa to lớn. 2. Đối tượng áp dụng Đối tượng là các em học sinh lớp 4B Trường Tiểu học Đoàn Lập. II. NỘI DUNG 1. Mục tiêu của biện pháp Tôi viết viết báo cáo này với mong muốn: - Rèn luyện kĩ năng làm các bài văn tả cho học sinh . - Giúp học sinh hệ thống hoá kiến thức, hiểu và khắc sâu, nhớ lâu kiến thức, phát triển hoạt động trí tuệ sáng tạo của học sinh, vận dụng tạo tiền đề sau này học sinh tiếp tục học các thể loại văn khác được tốt hơn. - Góp phần làm rõ phương pháp dạy, nâng cao chất lượng học văn miêu tả cho giáo viên và học sinh lớp 4. 2. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn để xây dựng biện pháp 2.1. Cơ sở lý luận (bao gồm những lý luận từ những kết quả nghiên cứu 3 theo các tài liệu hoặc các đề tài nghiên cứu có liên quan) 2.1.1 Các khái niệm về văn miêu tả Miêu tả: Miêu tả là nêu lên các đặc điểm của sự vật, hiện tượng bằng cách làm cho các sự vật, hiện tượng đó hiện lên trực tiếp (tái hiện) trước mắt người đọc (người nghe) một cách cụ thể, sống động, như thật khiến cho người ta có thể nhìn, nghe, ngửi, sờ mó được. Văn miêu tả: Văn miêu tả là loại văn nhằm giúp người đọc, người nghe hình dung những đặc điểm, tính chất nổi bật của sự vật, sự việc, con người, phong cảnh, làm cho nó như hiện lên trước mắt người đọc, người nghe. Vì thế, văn miêu tả là thể loại văn dùng lời nói, chữ viết có hình ảnh và cảm xúc làm cho người đọc, người nghe hình dung một cách rõ nét về người, vật, cảnh vật sự việc như vốn có trong đời sống. Một bài văn miêu tả hay không phải thể hiện chính xác, rõ nét, sinh động đối tượng miêu tả mà còn thể hiện trí tưởng tượng, cảm xúc và đánh giá của người viết đối với đối tượng miêu tả. 2.1.2 Đặc điểm văn miêu tả: - Văn miêu tả là thể loại sáng tác: văn miêu tả không phải là sự sao chép, chụp lại những sự vật, sự việc, con người một cách máy móc mà là kết quả của sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức phong phú. Đó là miêu tả thể hiện sự mới mẻ, riêng biệt của người viết. - Tính chân thật trong văn miêu tả: văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng, không ngăn cản cái mới mẻ của người viết. Nhưng như vậy, không có nghĩa văn miêu tả cho phép người viết bịa một cách tùy tiện, muốn nói sao thì nói, viết sao thì viết. Khi miêu tả cái mới, cái riêng phải gắn chặt với cái chân thực. Thấy đúng như thế nào thì tả như thế ấy. - Văn miêu tả phải là loại văn giàu cảm xúc, những rung động, những nhận xét tinh tế, dồi dào sáng tạo nhằm mục đích thông báo thẩm mỹ. Người đọc qua văn miêu tả nhận thức thực tế khách quan bằng con đường lí trí mà chủ yếu bằng cảm xúc, những rung động mạnh mẽ của tâm hồn. - Ngôn ngữ văn miêu tả giàu cảm xúc và hình ảnh: ngôn ngữ trong văn miêu tả phong phú, đa dạng. Và người viết còn đan xen giai điệu phụ trợ như: tường thuật, kể chuyện ... 2.2. Cơ sở thực tiễn (bao gồm các văn bản pháp lý và thực trạng triển khai tại đơn vị, phân tích số liệu thống kê về thực trạng) 4 Nội dung các bài viết văn miêu tả lớp 4 được gắn với các chủ điểm, có sự tích hợp rõ nét với các phân môn khác trong chương trình Tiếng Việt. Quá trình hướng dẫn học sinh thực hiện các kĩ năng phân tích đề, quan sát, tìm ý, nói, viết đoạn hoặc cả bài văn là những cơ hội giúp trẻ mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo chủ điểm đang học. Việc phân tích dàn bài, lập dàn ý, chia đoạn, quan sát đối tượng, tìm lí lẽ, dẫn chứng ,trình bày và tranh luận Góp phần phát triển năng lực phân tích tổng hợp của học sinh. Tư duy hình tượng của trẻ cũng được rèn luyện và phát triển qua việc sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá khi miêu tả. Học các tiết làm văn miêu tả, học sinh có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của con người và thiên nhiên, có cơ hội bộc lộ cảm xúc cá nhân, mở rộng tâm hồn và phát triển mẫu mực nhân cách con người Việt Nam. Thống kê con số học sinh yêu thích văn miêu tả năm học 2023-2024. Số học Rất thích (%) Thích (%) Không thích (%) sinh 35 16 45,8% 18 51,4% 1 2,8% 3. Nội dung biện pháp a. Biện pháp 1:Tiến trình hướng dẫn viết bài văn miêu tả. Trước hết cần phải hiểu rõ miêu tả là làm cho đối tượng mà ta đã từng nghe, từng thấy ... như được hiện ra trước mắt người nghe, người đọc. Từ việc nắm chắc thế nào là miêu tả, giáo viên cần giúp học sinh phân biệt được miêu tả trong văn chương và miêu tả trong khoa học. Ví dụ trong bài văn miêu tả con mèo, học sinh có viết: "Con mèo nhà em dài khoảng 30 cm, nặng khoảng 2 kg, chân nó dài khoảng 10 cm, lông nó màu vàng nhạt...." Giáo viên cần nói rõ cho học sinh biết đây chưa phải là cách miêu tả trong văn học. Miêu tả trong văn học không cần sự chính xác, tỉ mỉ đến như vậy. Giáo viên có thể đọc cho học sinh một số đoạn văn miêu tả về con mèo để học sinh thấy được sự khác nhau đó. Ví dụ 1: Chú mèo mướp nhà em to bằng cái phích nhỡ, lông màu tro có những vằn đen. Mặt nó khá xinh. Cái mũi ngắn, lúc nào cũng ươn ướt. Đôi tai như hai chiếc lá quất non luôn vểnh lên nghe ngóng. Mắt nó đen và tròn như hai hòn bi ve. 5 Ví dụ 2: Chú mèo tam thể nhà em có bộ lông trắng mềm mại, điểm những đốm vàng và nâu nhạt. Cái đuôi cong lên tựa dấu chấm hỏi như để làm duyên. Mỗi khi em học bài, chú thường nũng nịu cọ bộ ria trắng muốt như cước vào chân em. * Quan sát trong văn miêu tả: Bước đầu tiên để làm văn miêu tả là giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh cách quan sát. Trong văn miêu tả, quan sát có một vai trò rất quan trọng. Khi quan sát không chỉ sử dụng mắt nhìn mà còn phải dùng tất cả các giác quan: xúc giác, thính giác, vị giác,... Nếu không có quan sát thì vốn hiểu biết và trí tưởng tượng của học sinh rất khó phát triển. Văn miêu tả gắn chặt với tâm hồn, cũng như với óc quan sát tinh tế của con người. Chính những kết quả quan sát đã đem lại cho học sinh những cảm nhận về sự vật hiện tượng cần miêu tả. Chẳng hạn, nếu học sinh chưa từng nhìn thấy cây chuối thì học sinh sẽ không thể miêu tả về cây và cũng không có ấn tượng hay nhận thức gì về cây chuối. Khi dạy học sinh quan sát, giáo viên cần nhấn mạnh rằng bất kì sự tưởng tượng dù phong phú đến đâu cũng đều bắt nguồn từ thực tế, gắn với đời sống thực tế. Và muốn có sự hiểu biết thực tế thì cần phải quan sát. Những câu văn, bài văn miêu tả hay, có hồn và sinh động là những câu văn, bài văn của người biết quan sát, có tài quan sát và chịu khó quan sát. Chỉ cần chúng ta chịu khó quan sát, chúng ta sẽ có thể thấy được rất nhiều điều trong cuộc sống mà các em chưa bao giờ thấy hoặc chưa bao giờ để ý thấy. Mỗi một nhà văn muốn viết được những bài văn miêu tả hay cần phải có sự quan sát trải nghiệm thực tế thì mới có thể viết được lên những câu văn hay, sinh động mà mỗi khi đọc, người đọc dường như tưởng tượng ra được cả sự vật đó. Từ những hiểu biết về quan sát như vậy, khi dạy học sinh về văn miêu tả, giáo viên cần dạy các em cách quan sát. + Quan sát: Giáo viên cần hướng dẫn các em hiểu rằng: - Quan sát bên ngoài là dùng các giác quan như: thị giác, thính giác, xúc giác.... mà cảm nhận và phát hiện ra xem sự vật đó có hình dáng, đường nét, màu sắc,... như thế nào? Rồi phải xác định vị trí người quan sát, trình tự quan sát như từ xa đến gần hay từ ngoài vào trong. Giáo viên cần hướng cho các em làm quen và sử dụng tốt các từ ngữ có tính chất "công cụ" trong hoạt động quan sát: hình vẻ, dáng điệu... 6 - Quan sát bên trong là quan sát có so sánh, suy nghĩ và cảm xúc. + Quan sát phải gắn liền với so sánh và tưởng tượng: Tưởng tượng có vai trò tích cực trong cuộc sống. Tưởng tượng tạo nên những hình ảnh rực rỡ, phản ánh rõ ước mơ, lí tưởng của con người. Đối với văn miêu tả, tưởng tượng có vai trò đặc biệt quan trọng. Nhờ có tưởng tượng mà tất cả những hình ảnh, màu sắc, âm thanh....đều có thể được tái hiện trước mắt chúng ta. Tất cả những chi tiết đặc trưng nhất của sự vật trong thực tế không phải lúc nào cũng bộc lộ, nhưng nhờ có tưởng tượng mà sự vật mới hiện ra với những nét đặc trưng của nó. Văn miêu tả nhằm giúp người đọc hình dung ra sự vật, sự việc một cách sinh động, cụ thể. Vì thế, khi viết văn, người ta thường dùng liên tưởng, so sánh. Nhờ có liên tưởng, so sánh mà văn miêu tả khơi gợi được trí tưởng tượng, óc sáng tạo của người đọc. Do đó, khi hướng dẫn học sinh quan sát, giáo viên cần hướng dẫn học sinh phát hiện ra những nét giống nhau giữa các sự vật hiện tượng. Hay nói cách khác, khi quan sát, học sinh phải hình dung được trong đầu xem hình ảnh mình vừa quan sát được giống với những hình ảnh nào mà mình đã biết. Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh quan sát cây bàng, giáo viên có thể đặt ra hệ thống câu hỏi giúp học sinh liên tưởng và so sánh: - Khi nhìn từ xa trông cây như thế nào? Cây cao thế nào? Dáng cây ra sao? - Rễ cây trên mặt đất trông như thế nào? Nhìn rễ cây em có liên tưởng đến hình ảnh gì? Màu sắc của lá thay đổi theo mùa như thế nào?..... Với hệ thống câu hỏi như trên, học sinh không những viết ra những điều mình quan sát được mà còn có thể viết ra những câu văn giàu hình ảnh. Ngoài ra, giáo viên còn có thể đọc cho học sinh nghe những đoạn văn, đoạn thơ có nhiều hình ảnh so sánh và liên tưởng hay. Ví dụ đoạn văn tả về quả cam: Chao ôi! Trông những quả cam mới thích mắt làm sao! Mới ngày nào quả còn nhỏ xíu như trái bóng tennis, da dày và xanh lét. Vậy mà giờ đây, nhờ được uống sương mai và tắm trong nắng sớm cùng nguồn dinh dưỡng mát lành từ đất mẹ mà chúng như được thay áo mới. Trong những tán lá xanh mướt mỡ màng còn thấm đẫm sương đêm, lấp ló những trái cam vàng óng, với lớp da mỏng căng mượt. Mỗi lần cô gió ngang qua trêu đùa, các chú cam tinh nghịch lại cười rúc rích và khẽ đung đưa thân 7 hình tròn lẳn của mình làm xôn xao cả vườn cam. Không chỉ đẹp mà các chú cam còn rất thơm mát nữa đấy các bạn ạ! Khi bổ cam ra, bạn sẽ thấy những tép cam vàng óng, ngọt lành. Hương cam thơm mát như mật ong lan tỏa khắp căn phòng. Chính vì vậy, khi dạy văn miêu tả cho học sinh, giáo viên cần chú ý hướng dẫn các em sử dụng các hình ảnh so sánh, nhân hóa. Muốn được như vậy, giáo viên phải hướng dẫn các em quan sát thật kĩ những sự vật mà mình muốn miêu tả, từ đó các em có sự so sánh, liên tưởng xem các hình ảnh đó giống với cái gì để viết được những câu văn hay và sinh động. Dưới đây là một đoạn văn mà học sinh đã quan sát, miêu tả rất kĩ về cây đào. Trong đoạn văn này, em đã biết sử dụng những hình ảnh so sánh, nhân hóa rất sinh động và gợi cảm. Nhìn từ xa, cây đào giống như một cây nấm khổng lồ. Thân cây cao quá người em một chút. Gốc cây màu hơi nâu, xù xì. Cây có nhiều cành khẳng khiu đan vào nhau chằng chịt. Những ngày đông giá, cây đào trút sạch lá, chỉ còn trơ trụi những cành là cành trông thật buồn tẻ và tội nghiệp. Khi tiết trời ấm áp thì đào bắt đầu cựa mình trỗi dậy. Từ những cành bắt đầu xuất hiện những cái nụ nhỏ như đầu đũa. Chúng cứ thế lớn dần, lớn dần... Và đến ngày giáp tết, vô số cái nụ xòe ra và bừng nở, khoe sắc dưới nắng xuân. Những bông hoa năm cánh mỏng manh như lụa, để lộ cái nhụy vàng tinh khiết ở giữa. Hoa đào đẹp một cách lộng lẫy. Nhìn ngắm hoa đào, lòng người cảm thấy dễ chịu biết bao. Có thể nói liên tưởng và tưởng tượng có vai trò đặc biệt quan trong trong khi viết văn miêu tả. Giáo viên phải giúp học sinh hiểu rằng tưởng tượng phải dựa trên thực tế, không có nghĩa là nghĩ vu vơ và không có cơ sở thực tế. Để học sinh biết cách liên tưởng đúng, giáo viên phải giúp học sinh tập quan sát, tìm hiểu thực tế một cách có ý thức, có thói quen, có phương pháp. Từ đó các em mới có nền tảng và có cơ sở để tưởng tượng đúng. * Cảm xúc của người viết trong văn miêu tả: Văn miêu tả muốn hay thì không chỉ có cái tài quan sát, thể hiện bằng các từ ngữ, hình ảnh của người viết mà còn cần phải có tình cảm của người viết lồng vào đó. Nếu bài văn không có tình cảm thì dù có miêu tả phong phú và mới mẻ đến đâu thì bài văn cũng không thể gây được xúc động trong lòng người đọc. Giáo viên phải luôn chú ý, nhắc nhở các em xen lẫn tình cảm, cảm xúc của mình vào từng câu văn. 8 * Ngôn ngữ trong văn miêu tả: Muốn miêu tả được đúng, được hay thì phải giàu từ ngữ. Dù cho sự vật chúng ta cần miêu tả có ở ngay trước mắt nhưng để viết được và miêu tả được nó không phải là dễ. Viết văn miêu tả tả đôi khi cùng giống như một người họa sĩ đang vẽ tranh. Dù mẫu vật đang ở ngay trước mặt nhưng để miêu tả được hết cái hồn, cái thần của mẫu vật không phải là việc dễ dàng. Phải miêu tả như thế nào để toát ra được hết cái linh hồn và sắc thái riêng của mỗi sự vật mà khi đọc, người đọc có thể cảm nhận được điều đó. Làm thế nào để học sinh có thể viết ra được những cái mà mình đã quan sát? Để làm được điều này, giáo viên cần cung cấp cho học sinh một vốn từ ngữ gợi hình ảnh, phong phú và đa dạng. Việc cung cấp vốn từ này không chỉ được làm trong giờ Tập làm văn mà còn được rèn luyện chủ yếu trong các tiết Luyện từ và câu. Bản thân giáo viên cũng cần phải nắm rõ sự đa dạng và phong phú của tiếng Việt. Về ngữ pháp và cách diễn đạt, tiếng Việt cũng rất giàu khả năng miêu tả. Vì vậy muốn viết được những câu văn miêu tả hay, giáo viên cần chú ý dạy và sửa lỗi ngữ pháp và cách diễn đạt cho các em. Giáo viên có thể sửa lỗi diễn đạt và dùng từ cho học sinh vào tiết trả bài. Ngoài ra trong văn miêu tả cũng rất hay sử dụng các biện pháp tu từ như nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ. Với các biện pháp tu từ này, sự vật và con người có thể có nhiều điểm giống nhau trong cách miêu tả. Có thể nhân hóa bằng nhiều cách để tả về hình dáng bên ngoài hay các hoạt động, tâm trạng của sự vật. Do đó, giáo viên cần hướng dẫn học sinh sử dụng những biện pháp tu từ để bài văn miêu tả thêm sinh động. * Những kĩ năng cần rèn luyện cho học sinh khi viết văn miêu tả: + Tìm hiểu đề bài: Khi học văn miêu tả cần tìm hiểu yêu cầu của đề. Đề thường cho biết rõ đối tượng cần miêu tả (tả đồ vật con vật hay cây cối) trong phạm vi cụ thể. Khi ra đề, giáo viên cần nắm rõ mục đích và phạm vi của đề tài, không nên nói chung chung. Ví dụ: Giáo viên không thể ra đề " Tả một đồ vật" mà phải nói rõ đó là đồ vật gì. Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề, giáo viên cần yêu cầu các em gạch chân dưới những từ ngữ quan trọng của đề bài, các em cần xác định rõ mình sẽ tả cái gì, tả như thế nào?... 9 + Quan sát, tìm ý, chọn ý: Cần nhấn mạnh với học sinh, khi quan sát ta không chỉ quan sát bằng mắt mà cần phải cảm nhận cả bằng các giác quan khác (xúc giác, thính giác vị giác...) và còn cả bằng tâm hồn, không phải chỉ là cảm giác đơn thuần mà còn phải gắn liền với suy nghĩ, cảm xúc của người viết... Chính vì vậy, khi quan sát, chúng ta cần biết tìm ý và lựa chọn ý phù hợp, tránh viết tràn lan vào bài văn. Ví dụ khi đề bài yêu cầu: Tả một cây hoa mà em yêu thích hoặc có nhiều kỉ niệm gắn bó với em" giáo viên cần giúp các em định hướng miêu tả, không phải cứ thấy gì là tả đấy mà cần phải có sự suy nghĩ, chọn lọc ý: đó là cây hoa gì, dịp nào em có nó, cây có có những điểm gì làm em cảm thấy thích (hoặc gắn với kỉ niệm nào mà em không thể quên được?.....) Làm được điều đó, các em sẽ có những phát hiện mới mẻ, riêng biệt về cây mà mình định tả. + Sắp xếp ý: Khi sắp xếp ý, các em cần chú ý: - Sắp xếp theo trình tự thời gian: Cái gì xảy ra trước thì tả trước, cái gì xảy ra sau thì tả sau. - Sắp xếp theo trình tự không gian: Tả từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới hoặc từ dưới lên trên, tả từng bộ phận... - Đây chính là bước các em sẽ lựa chọn để xây dựng vào dàn ý. b. Biện pháp 2: + Sử dụng sơ đồ tư duy trong bài học ngay trên lớp - Sử dụng sơ đồ tư duy sẽ dễ dàng hơn trong việc phát triển ý tưởng, tìm tòi xây dựng kiến thức mới. Nhờ sự liên kết các nét vẽ cùng với màu sắc thích hợp và cách diễn đạt riêng của mỗi người, sơ đồ tư duy giúp bộ não liên tưởng, liên kết các kiến thức đã học trong sách vở, đã biết trong cuộc sống để phát triển, mở rộng ý tưởng. Sau khi học sinh tự thiết lập sơ đồ tư duy kết hợp việc thảo luận nhóm dưới sự gợi ý, dẫn dắt của giáo viên, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học một cách nhẹ nhàng, tự nhiên. - Có thể tóm tắt một số hoạt động dạy học trên lớp với sơ đồ tư duy như sau: Bước 1: Học sinh lập sơ đồ tư duy theo nhóm hay cá nhân với gợi ý của giáo viên. Bước 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về sơ đồ tư duy mà nhóm mình đã thiết lập. 10 Bước 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện sơ đồ tư duy về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh sơ đồ tư duy, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học. Bước 4: Củng cố kiến thức bằng một sơ đồ tư duy mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc một sơ đồ tư duy mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày về kiến thức đó. Ví dụ: Bài lập dàn ý cho bài văn miêu tả con vật, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ tư duy theo mẫu sau: c. Biện pháp 3: + Sử dụng sơ đồ tư duy ngoài tiết học Không những ở trên lớp mà giáo viên hoàn toàn có thể sử dụng sơ đồ tư duy như một dạng bài tập để học sinh về nhà hoàn chỉnh. Đây là cách để học sinh ôn bài rất có hiệu quả. Các em phải nhớ một cách thực sự chứ không phải học vẹt mới có thể vẽ trên sơ đồ tư duy và sau đó mang đến lớp trình bày. Có thể tóm tắt các bước hướng dẫn học sinh làm sơ đồ tư duy ngoài tiết học như sau: Bước 1: Sau khi giáo viên dạy xong bài, yêu cầu học sinh nhắc lại toàn bộ kiến thức. Bước 2: Hướng dẫn sơ lược học sinh về nhà vẽ sơ đồ tư duy cho phần bài học trên lớp. Bước 3: Học sinh mang đến lớp trao đổi với bạn. Sau đó giáo viên chọn lọc để mời một số em lên trình bày để lớp cùng nhận xét. (Đây có thể như là một phần kiểm tra bài cũ). 4. Các thức/quy trình thực hiện biện pháp - Trước khi triển khai thực hiện các biện pháp, khảo sát đánh giá tình trạng thực tiễn. - Triển khai các biện pháp thực hiện. - Kiểm tra đánh giá đánh giá mức độ đạt được của biện pháp. - Tổng hợp báo cáo kết quả đạt được. 11 III. THỰC NGHIỆM BIỆN PHÁP TẠI ĐƠN VỊ 1. Đối tượng, nội dung, phương pháp thực nghiệm 35 học sinh lớp 4B trường Tiểu học Đoàn Lập huyện Tiên Lãng Hải Phòng. 2. Tiến trình thực nghiệm - Trước khi đưa vào thực hiện các biện pháp. Khảo sát 35 học sinh đạt được các mức độ: Tốt, đạt, cần cố gắng. - Đưa biện pháp vào áp dụng cho 35 học sinh. - Khảo sát sau khi thực hiện các biện pháp. Khảo sát 35 học sinh đạt được các mức độ: Tốt, đạt, cần cố gắng. - So sánh kết quả đạt được. 3. Đánh giá kết quả thực nghiệm a, Kết quả trước khi thực hiện biện pháp Số lượng Tốt Đạt Cần cố gắng 35 20 57% 13 37,3% 2 5,7% b, Kết quả trước khi thực hiện biện pháp Số lượng Tốt Đạt Cần cố gắng 35 29 82,85% 6 17,15% 0 0% - Học sinh đạt loại tốt tăng 25,86 % (tăng cao) - Số lượng hs đạt giảm 20,15% - Cần cố gắng giảm đi 5,7% (không còn hs đạt loại cần cố gắng) IV. KẾT LUẬN, ĐỀ XUẤT 4.1 Bài học kinh nghiệm rút ra từ quá trình áp dụng biện pháp - Tiết kiệm thời gian khi giáo viên lên lớp; hạn chế việc giáo vên phải sưu tầm đồ dùng; học sinh có thể vẽ BĐTD để tái hiện kiến thức trên bất cứ chất liệu nào: giấy nháp, bảng con, giấy A4. Giáo viên có thể vẽ BĐTD trên phần mềm mind-maps làm đồ dùng trực quan, làm tư liệu dạy học lâu dài. - Tạo hứng thú cho học sinh khi tiếp cận môn học, không còn sự buồn tẻ khi bắt đầu tiết học vốn coi là khó khăn, khô khan. - Học sinh hiểu bài, tiếp thu bài nhanh, nắm chắc kiến thức, nhớ kiến thức lâu hơn. Giúp cho giáo viên đào tạo được những học sinh năng động, sáng tạo, có khả năng tư duy, khả năng ghi nhớ góp phần vào việc giáo dục học sinh phát triển một cách toàn diện. 12 - Triển khai đề tài ít tốn kém, không mất quá nhiều thời gian đầu tư,dễ nhân rộng và đạt hiệu quả cao cho giảng dạy. Phương pháp này còn có thể áp dụng cho việc giảng dạy các môn học khác. Đồng thời giúp bồi dưỡng giáo viên, rèn được các kĩ năng sử dụng đồ dùng dạy học cho cả giáo viên và học sinh, nâng cao hiệu quả giảng dạy. - Là tài liệu bổ sung cho bản thân tôi trong quá trình giảng dạy sau này. - Giúp cho học sinh có phương pháp học chủ động, sáng tạo, giáo viên và phụ huynh học sinh kiểm tra kiến thức của con em mình một cách dễ dàng, hệ thống và thuận tiện. 4.2 Kiến nghị đề xuất để triển khai, ứng dụng biện pháp vào thực tiễn của nhà trường. - Biện pháp này ngoài áp dụng cho làm các bài văn miêu tả, có thể áp dụng các phương pháp vào các môn học khác, khối lớp khác không chỉ có khối lớp 4. - Để có được những kiến thức các em thu được qua quan sát trực quan thực tế nhà trường tạo điều kiện về cơ sỏ vật chất của nhà trường. Đồng thời tổ chức các hoạt động học tập thực tế trong năm học. Đoàn Lập, ngày 21 tháng 11 năm 2024 XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG TÁC GIẢ Nguyễn Ngọc Sang 13 CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc BẢN TÓM TẮT THÀNH TÍCH I. THÔNG TIN CÁ NHÂN - Họ và tên Nguyễn Ngọc Sang Giới tính: Nam - Ngày tháng năm sinh: sinh: 07/01/1980 - Năm vào ngành 2018; Trình độ đào tạo: Đại học - Trường tiểu học nơi công tác: Tiểu học Đoàn Lập - Xếp loại Chuẩn nghề nghiệp GVTH năm 2023 - 2024: Tốt II. TÓM TẮT THÀNH TÍCH CÁ NHÂN 1. Kết quả giảng dạy. Tốt 2. Danh hiệu giáo viên giỏi các cấp theo năm học. - Giáo viên giỏi cấp huyện năm học 2022-2023. - Giáo viên chủ nhiện giỏi cấp huyện năm học 2023-2024. 3. Các thành tích đạt được khác (nếu có) Đoàn Lập, ngày 21 tháng 11 năm 2024 XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG NGƯỜI VIẾT Nguyễn Ngọc Sang 14
Tài liệu đính kèm: