Con người, ngoài nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại thì giao tiếp là một nhu cầu đặc biệt, đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển xã hội loài người. Trong “Tác phẩm triết – mỹ chọn lọc”, Triết học gia người Đức Ludwig Andreas Feuerbach chỉ ra rằng “Con người riêng lẻ, như một thứ gì đó biệt lập, không chứa đựng trong nó bản chất người. Bản chất người chỉ tồn tại trong giao tiếp, trong sự thống nhất của con người với con người, trong sự thống nhất chỉ dựa trên hiện thực của sự khác nhau giữa Tôi và Bạn. Con người cho mình là con người trong nghĩa bình thường: con người trong giao tiếp với con người, sự thống nhất của Tôi và Bạn là Thượng đế".
Điều đó một lần nữa khẳng định con người không thể sống, lao động, học tập mà không có giao tiếp. Giao tiếp chính là động lực thúc đẩy sự hình thành và phát triển nhân cách. Qua giao tiếp, con người có thể tự hiểu mình nhiều hơn đồng thời hiểu được tâm tư, tình cảm, ý nghĩ, nhu cầu của người khác.
Cuộc sống mỗi ngày một đổi thay. Việc học hành vì thế cũng mỗi ngày một khác. Việc dạy dỗ của người thầy cũng phải thích ứng với sự phát triển của xã hội, cuộc sống, của những tiến bộ khoa học; thích ứng với tâm lí, nhận thức của mỗi lứa tuổi học trò. Nhưng dù trong bất kì môi trường giáo dục nào và với bất kể đối tượng giáo dục là ai thì điều những người thầy dạy học trò, rằng “Tiên học lễ, hậu học văn” là không bao giờ thừa cũng như chưa bao giờ cũ.
Nhà khoa học vĩ đại nhất thế kỉ XX - Albert Einstein - từng nói “Nhà trường phải luôn luôn có chủ trương tạo cho học trò một cá tính cân đối chứ không nên biến chúng thành một nhà chuyên môn”. Việc giáo dục và đào tạo trong nhà trường không chỉ chú trọng tạo ra những con người giỏi về kiến thức chuyên môn mà còn phải hoàn thiện về nhân cách, đạo đức, cách cư xử.
Muốn hoàn thành mục tiêu này thì mỗi giáo viên và học sinh phải cùng nỗ lực thực hiện nhiệm vụ của mình, trong đó giao tiếp sư phạm đóng một vai trò hết sức quan trọng, bởi đây là điều kiện đảm bảo cho hoạt động sư phạm diễn ra thành công. Không có giao tiếp sư phạm thì không thể đạt được mục đích của giáo dục.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ Con người, ngoài nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại thì giao tiếp là một nhu cầu đặc biệt, đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển xã hội loài người. Trong “Tác phẩm triết – mỹ chọn lọc”, Triết học gia người Đức Ludwig Andreas Feuerbach chỉ ra rằng “Con người riêng lẻ, như một thứ gì đó biệt lập, không chứa đựng trong nó bản chất người. Bản chất người chỉ tồn tại trong giao tiếp, trong sự thống nhất của con người với con người, trong sự thống nhất chỉ dựa trên hiện thực của sự khác nhau giữa Tôi và Bạn. Con người cho mình là con người trong nghĩa bình thường: con người trong giao tiếp với con người, sự thống nhất của Tôi và Bạn là Thượng đế". Điều đó một lần nữa khẳng định con người không thể sống, lao động, học tập mà không có giao tiếp. Giao tiếp chính là động lực thúc đẩy sự hình thành và phát triển nhân cách. Qua giao tiếp, con người có thể tự hiểu mình nhiều hơn đồng thời hiểu được tâm tư, tình cảm, ý nghĩ, nhu cầu của người khác. Cuộc sống mỗi ngày một đổi thay. Việc học hành vì thế cũng mỗi ngày một khác. Việc dạy dỗ của người thầy cũng phải thích ứng với sự phát triển của xã hội, cuộc sống, của những tiến bộ khoa học; thích ứng với tâm lí, nhận thức của mỗi lứa tuổi học trò. Nhưng dù trong bất kì môi trường giáo dục nào và với bất kể đối tượng giáo dục là ai thì điều những người thầy dạy học trò, rằng “Tiên học lễ, hậu học văn” là không bao giờ thừa cũng như chưa bao giờ cũ. Nhà khoa học vĩ đại nhất thế kỉ XX - Albert Einstein - từng nói “Nhà trường phải luôn luôn có chủ trương tạo cho học trò một cá tính cân đối chứ không nên biến chúng thành một nhà chuyên môn”. Việc giáo dục và đào tạo trong nhà trường không chỉ chú trọng tạo ra những con người giỏi về kiến thức chuyên môn mà còn phải hoàn thiện về nhân cách, đạo đức, cách cư xử. Muốn hoàn thành mục tiêu này thì mỗi giáo viên và học sinh phải cùng nỗ lực thực hiện nhiệm vụ của mình, trong đó giao tiếp sư phạm đóng một vai trò hết sức quan trọng, bởi đây là điều kiện đảm bảo cho hoạt động sư phạm diễn ra thành công. Không có giao tiếp sư phạm thì không thể đạt được mục đích của giáo dục. Trường học là nơi cung cấp cho học sinh những nét đẹp của văn hóa một cách khuôn mẫu và bài bản nhất. Việc xây dựng chuẩn mực về lời nói, hành vi trong giao tiếp, ứng xử một cách mẫu mực trong các trường học nói chung và các trường tiểu học nói riêng đòi hỏi các nhà giáo dục phải đưa ra những chuẩn mực trong chương trình giảng dạy. Chính vì thế giáo dục văn hóa giao tiếp không thể tách rời môi trường giáo dục. Muốn nâng cao văn hóa ứng xử của học sinh trong học đường con đường gần nhất, hiệu quả nhất không thể nằm ngoài mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau giữa giáo dục và giao tiếp. Nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của giao tiếp trong cuộc sống nói chung, trong lĩnh vực giáo dục đào tạo nói riêng. Tôi nhận thấy hoạt động giao tiếp trong nhà trường hiện nay rất cần thiết được quan tâm, chú trọng, do đó tôi xin mạnh dạn đưa ra: “Một số giải pháp góp phần giúp HS Tiểu học ứng xử trong giao tiếp. Trong phạm vi đề tài của mình, tôi chỉ nghiên cứu chủ yếu về thực trạng giao tiếp của đối tượng học sinh tiểu học. II NỘI DUNG 1. Thực trạng Trong những năm gần đây, Bộ GD-ĐT đã có nhiều chương trình nhằm nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường như: phát động phong trào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”; đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống ( KNS ) lồng ghép vào các môn học ở bậc tiểu học... Đây là một trong những giải pháp giúp học sinh ( HS ) hình thành và phát triển nhân cách, cũng như giáo dục HS một cách toàn diện. Văn hoá ứng xử của con người nói chung và của học sinh nói riêng đang là vấn đề được các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương, các nhà trường, gia đình và xã hội đề cập khá nhiều. Đây cũng là vấn đề được dư luận xã hội và các cơ quan báo chí quan tâm, trong đó bức xúc hơn cả là những biểu hiện có chiều hướng đi xuống của vấn đề giao tiếp, ứng xử của HS. Về lí thuyết, học đường là môi trường trong đó mỗi cá nhân có điều kiện học hỏi kiến thức, rèn luyện kĩ năng giao tiếp, ứng xử, xây dựng và hình thành nền tảng tri thức và nhân cách của một công dân mẫu mực. Thực tế hiện nay, giao tiếp trong môi trường học đường đang ở mức báo động về hành vi ứng xử thiếu văn hóa, lời nói thiếu lịch sự, nhã nhẵn, cách giao tiếp lệch chuẩn, vượt ra ngoài những qui tắc ứng xử văn hóa thông thường. Đã có nhiều tấm gương học sinh dũng cảm cứu bạn, nhưng bên cạnh đó vẫn còn có trường hợp đối xử, giải quyết những mâu thuẫn đời thường với nhau chưa đúng đạo lý, hay nói một cách khác là đối xử với nhau thiếu văn hoá như: HS đánh thầy, HS kết bè cánh để đánh nhau; hiện tượng giáo viên dùng những lời lẽ thiếu chuẩn mực, hành động thiếu lịch sự để chỉ trích, trách phạt học trò; hiện tượng HS, sinh viên có cử chỉ, thái độ, hành động vô lễ với thầy, cô giáo... Giáo dục văn hóa giao tiếp trong nhà trường – hơn lúc nào hết, cần được quan tâm đúng mức và được đặt đúng trọng tâm trong mục tiêu giáo dục chung của mỗi nhà trường. 2. Nguyên nhân của thực trạng Ngày nay, do xu hướng tôn trọng tự do cá nhân, do công việc của cha mẹ, do sự khác biệt ngày càng lớn giữa các thế hệ trong gia đình và do có điều kiện về kinh tế nên phần nhiều gia đình ngày nay không còn giữ mô hình gia đình nhiều thế hệ kiểu truyền thống như tam đại đồng đường, tứ đại đồng đường... mà là kiểu gia đình nhỏ, gia đình ít thế hệ cùng chung sống. Bởi vậy, phần nhiều HS ít có điều kiện tiếp xúc với người lớn tuổi, dẫn đến kỹ năng giao tiếp, cách ứng xử của các em với người già cũng còn nhiều hạn chế. Sự giao tiếp của các em trong gia đình cũng không nhiều, không thường xuyên. Điều này được lý giải bởi cha mẹ các em bận rộn công việc mưu sinh, ít thời gian dành cho con cái. Nhiều ông bố bà mẹ còn đơn giản trong nhận thức về giáo dục con cái, cho rằng chỉ cần lo cho con cái đầy đủ về vật chất chứ ít khi dành thời gian trò chuyện, tâm sự với con, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của con mình. Văn hoá ứng xử của HS được hình thành trước hết là từ trong gia đình và luôn chịu sự chi phối của văn hoá gia đình. Đáng tiếc là hiện nay sức ép của cha mẹ về học tập thi cử, điểm số, danh hiệu, thành tích của con đã khiến học sinh thui chột các nhu cầu văn hoá giao tiếp ứng xử. Gia đình chỉ muốn nhồi nhét ngày càng nhiều kiến thức cho con mà có khi quên chuyện dạy làm người, dạy tôn sư trọng đạo, kính trên nhường dưới. Bên cạnh đó, sự lai tạp của nhiều luồng văn hóa lai căng làm cho giới trẻ nhanh chóng tiêm nhiễm nhiều thói hư tật xấu. Đa phần HS ngày nay ít chú ý, quan tâm tới tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá của địa phương và ngoài xã hội, coi đó là chuyện của người lớn, không liên quan đến bản thân. Cách ứng xử này lâu dần sẽ hình thành trong các em thái độ bàng quan, dửng dưng với xã hội bên ngoài, thậm chí vô cảm trước mọi việc. Ở nhà trường, tuy rằng chúng ta cũng có giáo dục HS kỹ năng giao tiếp, nhưng chương trình sách giáo khoa vẫn còn nặng nề, thiên về lý thuyết. Việc tổ chức các sinh hoạt tập thể cho các em trong năm học còn ít, hình thức tổ chức còn đơn điệu, thiếu sáng tạo, chưa thật phù hợp với tâm sinh lý học sinh nên sức thu hút và hiệu quả còn hạn chế, bởi thế việc giúp đỡ các em có thêm kỹ năng sống, nâng cao khả năng giao tiếp chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Một điều không thể không nhắc đến, đó là thái độ ứng xử của giáo viên với học sinh, sao cho thân thiện mà vẫn giữ vững sự tôn nghiêm. Đặc biệt, các thầy cô cần phải tôn trọng học sinh. 3. Một số giải pháp Ở cấp Tiểu học, trẻ bắt đầu quá trình học tập thực thụ. Chương trình Tiểu học hiện hành bao gồm các môn bắt buộc là Toán, Tiếng Việt, Đạo đức, Tự nhiên – Xã hội (lớp 1, 2, 3)/ Khoa học, Lịch sử, Địa lí (lớp 4, 5), Nghệ thuật (lớp 1, 2, 3)/Âm nhạc, Mĩ Thuật, Kĩ thuật (lớp 4, 5) và Thể dục.Với mục tiêu “giúp học sinh có những hiểu biết ban đầu về một số chuẩn mực hành vi đạo đức và pháp luật phù hợp với lứa tuổi theo 5 mối quan hệ: bản thân, gia đình, nhà trường, cộng đồng xã hội, môi trường tự nhiên; từng bước hình thành kĩ năng nhận xét, đánh giá hành vi của bản thân và những người xung quanh theo các chuẩn mực đã học, kĩ năng lựa chọn và thực hiện các hành vi ứng xử phù hợp với chuẩn mực trong các mối quan hệ và tình huống đơn giản, cụ thể trong cuộc sống”. Môn Đạo đức là môn học có thế mạnh về giáo dục hành vi văn hóa cho trẻ. Tuy nhiên, với thời lượng 1 tiết/tuần cộng với tâm lí “môn phụ” và nhiều hạn chế thì việc đạt và đảm bảo mục tiêu mà môn học này đề ra là rất khó. Từ năm học 2010-2011, Bộ GD-ĐT đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống lồng ghép vào các môn học ở bậc tiểu học. Đây là một chủ trương cần thiết và đúng đắn. Tuy nhiên, để giáo dục KNS cho HS đạt hiệu quả đòi hỏi nhiều yếu tố chứ không chỉ từ các bài giảng. Giáo dục KNS là làm sao trang bị cho HS những kiến thức, kỹ năng về cuộc sống để các em có thể thích ứng với cuộc sống, để có thể tự mình xử lý mọi tình huống trong thực tế một cách tốt nhất. Muốn HS được giáo dục kĩ năng giao tiếp ứng xử cần thực hiện tốt các vấn đề sau: 1. Lồng ghép thích hợp vào các môn học để giáo dục KNS cho HS Đối với HS bậc tiểu học thì hoạt động ngoài giờ lên lớp ( HĐNGLL ) có ý nghĩa rất quan trọng trong việc rèn luyện KNS. HĐNGLL giúp học sinh hình thành hệ thống kỹ năng, hành vi như: kỹ năng thực hiện các công việc lao động đơn giản, các kỹ năng sáng tạo nghệ thuật, thực hiện các bài thể dục, các trò chơi, các hành vi ứng xử đối với mọi người trong gia đình, trong nhà trường và trong xã hội... Những kỹ năng tham gia hoạt động tập thể, kỹ năng tổ chức những hoạt động chung cùng nhau, biết phối hợp với mọi người cùng thực hiện hoạt động chung, nâng cao ý thức tự chủ, tự tin, chủ động và giao tiếp với mọi người. Dựa vào những kỹ năng, hành vi này để rèn luyện những kỹ xảo, thói quen đạo đức bền vững và tự quản trong sinh hoạt tập thể. Như vậy, chúng ta phải biết tận dụng và phát huy nhiệm vụ này của HĐNGLL để góp phần rèn luyện KNS cho HS. Để thực hiện được điều đó cần tổ chức cho HS - Hoạt động văn hóa nghệ thuật: Đây là một loại hình hoạt động quan trọng, không thể thiếu được trong sinh hoạt tập thể của trẻ em, nhất là HS tiểu học. Hoạt động này bao gồm nhiều thể loại khác nhau: Hát, múa, thơ ca, kịch ngắn, kịch câm, tấu vui, độc tấu, nhạc cụ, thi kể chuyện Các hoạt động này góp phần hình thành cho các em kỹ năng mạnh dạn, tự tin trước đám đông. Đây là một trong những kỹ năng rất quan trọng trong xu thế toàn cầu hóa. - Hoạt động vui chơi giải trí, TDTT: Vui chơi, giải trí là nhu cầu thiết yếu của trẻ, đồng thời là quyền lợi của các em. Nó là một loại hoạt động có ý nghĩa giáo dục to lớn đối với HS ở trường tiểu học. Hoạt động này làm thỏa mãn về tinh thần cho trẻ em sau những giờ học căng thẳng, góp phần rèn luyện một số phẩm chất: tính tổ chức, kỉ luật, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tinh thần đoàn kết, lòng nhân ái Nói về hoạt động này thì hầu hết các trường có tổ chức thực hiện nhưng xét về tính hiệu quả thì không phải nhà trường nào cũng đạt được. Sở dĩ như thế là do điều kiện về cơ sở vật chất cũng như trình độ chuyên môn của tổng phụ trách chưa thể đáp ứng được. Nhưng dù sao chúng ta cũng phải nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động này để hướng hoạt động đạt mục tiêu đã đề ra. - Hoạt động xã hội: Bước đầu đưa HS vào các hoạt động xã hội để giúp các em nâng cao hiểu biết về con người, đất nước, xã hội. Đây là một hoạt động tuy khó nhưng nó mang một ý nghĩa vô cùng to lớn. Thông qua hoạt động này, các em sẽ được bồi dưỡng thêm về nhân cách, đặc biệt là tình người. Trong thực tế, hoạt động này đã được các nhà trường tiến hành tương đối tốt. Nhưng, theo chúng tôi, hoạt động này phải được khai thác một cách triệt để nhằm phát triển tối đa nhân cách ở các em. - Hoạt động lao động công ích: Đây là một loại hình đặc trưng của HĐNGLL. Thông qua lao động công ích sẽ giúp các em gắn bó với đời sống xã hội. Ngoài ra lao động công ích còn góp phần làm cho trẻ hiểu thêm về giá trị lao động, từ đó giúp trẻ có ý thức lao động lành mạnh. Lao động công ích giúp trẻ vận dụng kiến thức vào đời sống như: Trực nhật, vệ sinh lớp học, sân trường, làm đẹp bồn hoa, cây cảnh cho đẹp trường, lớp. Đây là hoạt động tưởng như là thường xuyên nhưng thật ra trong nhà trường bây giờ HS rất ít được tham gia các hoạt động này. Có chăng chỉ là ép buộc và hình thức. Nhưng đây là hoạt động thật sự cần thiết giúp các em thích nghi với cuộc sống xung quanh. Sau này dù có rơi vào hoàn cảnh khắc nghiệt nào thì các em vẫn có thể tồn tại được. Đó là nhờ các em biết lao động. - Hoạt động tiếp cận khoa học - kĩ thuật: Đây là hoạt động giúp các em tiếp cận được những thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến. Điều đó sẽ tạo cho các em sự say mê, tìm tòi, kích thích học tập tốt hơn. Những hoạt động này có thể là sưu tầm những bài toán vui, tham gia sinh hoạt CLB khoa học, tìm hiểu các danh nhân, các nhà bác học Đây là một hoạt động nhằm tạo điều kiện cho các em làm quen với việc nghiên cứu khoa học và tự khẳng định mình. Có thể nói đây là hoạt động mà các nhà trường ít chú trọng tới - ít chú trọng không phải là do không hiểu hết tầm quan trọng của nó mà là do điều kiện không cho phép. Đó là điều kiện về cơ chế, về thời gian, về năng lực của đội ngũ giáo viên tổng phụ trách Tóm lại, HĐNGLL có ý nghĩa hết sức to lớn đối với việc hình thành KNS cho HS. Do đó, các nhà quản lý giáo dục cần tạo mọi điều kiện thật tốt cho những giáo viên phụ trách công tác này để sao cho việc rèn luyện KNS cho HS đạt được hiệu quả cao nhất. 2. Mỗi GV là tấm gương sáng cho HS noi theo Đội ngũ giáo viên phải đặc biệt chú ý giáo dục văn hóa giao tiếp cho học sinh, đây là nhân tố rất quan trọng. Thực tế, những em bé khi bắt đầu tới lớp đã luôn coi những điều thầy cô nói và làm ở trường là chân lí. Nhiều trẻ về nhà nhất định không chịu nghe lời cha mẹ chỉ vì thầy cô ở trường nói khác, làm khác. Tác động của thầy cô giáo đối với việc hình thành và phát triển nhân cách ở học sinh là vô cùng quan trọng. Việc nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi giáo viên trong giáo dục văn hóa giao tiếp cho học sinh không thể nói chung chung mà phải cụ thể hóa trong kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học của mỗi nhà trường và mỗi giáo viên. Các kế hoạch ấy phải chỉ rõ mục tiêu, yêu cầu, nội dung và biện pháp cụ thể. Cần phải xem việc giáo dục văn hóa giao tiếp cho học sinh là nhiệm vụ bắt buộc với mỗi giáo viên, có kiểm tra, đánh giá và xếp loại thi đua theo từng năm học. Làm như vậy, chúng ta đồng thời đẩy mạnh cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” mà ngành đang thực hiện. 3. Phối hợp các môi trường giáo dục Nhà trường cần phối hợp với chặt chẽ với gia đình, các tổ chức, đoàn thể trong việc giáo dục văn hóa giao tiếp cho học sinh, góp phần nâng cao ý thức của toàn xã hội đối với công việc tưởng chừng đơn giản nhưng rất quan trọng này. Việc giáo dục văn hoá giao tiếp ứng xử cho học sinh không thể “phó mặc” hoàn toàn cho nhà trường mà gia đình cần sát cánh cùng nhà trường, cha mẹ phải làm gương cho con em mình. Bố mẹ nên lắng nghe con cái, gần gũi con cái để hiểu và chia sẻ với con những vướng mắc mà con gặp phải trong cuộc sống. Ngoài ra, nhà trường cần huy động sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, đoàn thể trong trường như Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Đội Thiếu niên. Tích cực đẩy mạnh tuyên truyền, kết hợp nội dung giáo dục văn hóa giao tiếp với các cuộc vận động lớn mà ngành đang thực hiện như cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”... III. THAY LỜI KẾT Giáo dục ứng xử giao tiếp trong trường học hy vọng sẽ trở thành mối quan tâm thường xuyên của toàn xã hội, góp phần không nhỏ vào mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo con người, đáp ứng yêu cầu của chiến lược xây dựng và phát triển đất nước theo hướng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tài liệu đính kèm: