Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Tập làm văn lớp Bốn

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Tập làm văn lớp Bốn

Tiểu học là bậc học đầu tiên ,là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân.Ở bậc học này chúng ta phải dạy cho các em những kiến thức cơ bản để có thể đi vào cuộc sống sau khi học xong bậc học này.Mỗi lớp học ở tiểu học có vai trò hết sức quan trọng,ở mỗi lớp đều học chín môn về các lĩnh vực của cuộc sống. Chương trình lớp Bốn cũng vậy có chín môn học bắt buộc đó là Toán,Tiếng Việt,Khoa học,Lịch Sử,Địa Lí,Đạo Đức,Mĩ thuật,Kĩ Thuật,Âm Nhạc. Trong đó môn Tiếng Việt là môn học chiếm số tiết nhiều nhất và là môn khó thực hiện nhất trong quá trình dạy và học, đặc biệt là phân môn Tập Làm Văn . Bởi vì đa số học sinh ít ham học môn này,các em thiếu vốn sống thực tế vì vậy thiếu cảm xúc khi viết, học sinh thường miêu tả như một bài khoa học, nặng liệt kê các bộ phận của sự vật. Bài văn viết thường lan man câu không ra câu,đoạn không ra đoạn,lủng củng,không có ý.

Đối với giáo viên cũng gặp không ít khó khăn trong khi dạy môn này, đôi khi ngại dạy vì phải thường xuyên xử lí các tình huống khác nhau trong tiết dạy. Thêm vào đó khả năng sử dụng ngôn ngữ của Giáo viên cũng còn nhiều hạn chế.

Hơn thế nữa, trường Tiểu học Lũng Cao II là một trường cách xa trung tâm huyện đa số học sinh là con em dân tộc Thái, đường giao thông đi lại khó khăn, điều kiện kinh tế chậm phát triển, trình độ dân trí còn thấp,gia đình chưa quan tâm đúng mức tới việc học của con em mình thậm chí là chưa hề quan tâm. Điều đó làm cho chất lượng học tập của học sinh đã thấp lại càng thấp hơn đặc biệt là phân môn Tập làm văn .

Trước một thực tế như vậy ,là một giáo viên tiểu học trực tiếp giảng dạy lớp Bốn tôi đã trăn trở suy nghĩ rất nhiều và đã mạnh dạn nêu ra “một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Tập làm văn lớp Bốn”,mà tôi đang áp dụng vào trong việc dạy của mình.

 

doc 10 trang Người đăng haiphuong68 Lượt xem 656Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Tập làm văn lớp Bốn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A . Phần mở đầu
1. Đặt vấn đề:
Tiểu học là bậc học đầu tiên ,là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân.ở bậc học này chúng ta phải dạy cho các em những kiến thức cơ bản để có thể đi vào cuộc sống sau khi học xong bậc học này.Mỗi lớp học ở tiểu học có vai trò hết sức quan trọng,ở mỗi lớp đều học chín môn về các lĩnh vực của cuộc sống. Chương trình lớp Bốn cũng vậy có chín môn học bắt buộc đó là Toán,Tiếng Việt,Khoa học,Lịch Sử,Địa Lí,Đạo Đức,Mĩ thuật,Kĩ Thuật,Âm Nhạc. Trong đó môn Tiếng Việt là môn học chiếm số tiết nhiều nhất và là môn khó thực hiện nhất trong quá trình dạy và học, đặc biệt là phân môn Tập Làm Văn . Bởi vì đa số học sinh ít ham học môn này,các em thiếu vốn sống thực tế vì vậy thiếu cảm xúc khi viết, học sinh thường miêu tả như một bài khoa học, nặng liệt kê các bộ phận của sự vật. Bài văn viết thường lan man câu không ra câu,đoạn không ra đoạn,lủng củng,không có ý.
Đối với giáo viên cũng gặp không ít khó khăn trong khi dạy môn này, đôi khi ngại dạy vì phải thường xuyên xử lí các tình huống khác nhau trong tiết dạy. Thêm vào đó khả năng sử dụng ngôn ngữ của Giáo viên cũng còn nhiều hạn chế.
Hơn thế nữa, trường Tiểu học Lũng Cao II là một trường cách xa trung tâm huyện đa số học sinh là con em dân tộc Thái, đường giao thông đi lại khó khăn, điều kiện kinh tế chậm phát triển, trình độ dân trí còn thấp,gia đình chưa quan tâm đúng mức tới việc học của con em mình thậm chí là chưa hề quan tâm. Điều đó làm cho chất lượng học tập của học sinh đã thấp lại càng thấp hơn đặc biệt là phân môn Tập làm văn .
Trước một thực tế như vậy ,là một giáo viên tiểu học trực tiếp giảng dạy lớp Bốn tôi đã trăn trở suy nghĩ rất nhiều và đã mạnh dạn nêu ra “một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Tập làm văn lớp Bốn”,mà tôi đang áp dụng vào trong việc dạy của mình. 
	B . giải quyết vấn đề
 I.Thực trạng:
Trong chương trình ở tiểu họcTiếng Việt là môn học chiếm số tiết nhiều nhất và là môn khó thực hiện nhất trong quá trình dạy và học, đặc biệt là phân môn Tập Làm Văn . Bởi vì đa số học sinh ít ham học môn này,các em thiếu vốn sống thực tế vì vậy thiếu cảm xúc khi viết, học sinh thường miêu tả như một bài khoa học, nặng liệt kê các bộ phận của sự vật. Bài văn viết thường lan man câu không ra câu,đoạn không ra đoạn,lủng củng,không có ý.Thực tế học tập các em thường gặp khó khăn trong những vấn đề cơ bản sau: Khó khăn khi nhận biết đặc điểm thể loại của các loại bài văn; khó khăn khi quan sát đối tượng ;khó khăn trong tưởng tượng và liên tưởng với các sự vật hiệntượng xung qanh;khó khăn khi học sinh muốn bày tỏ tình cảm,thái độ,cảm xúc đối với bài văn minh viết;khó khăn trong sử dụng từ ngữ và các biện pháp tu từ;khó khăn khi diễn đạt bằng lời nói hoặc viết..
 Đối với giáo viên cũng gặp không ít khó khăn trong khi dạy môn này, đôi khi ngại dạy vì phải thường xuyên xử lí các tình huống khác nhau trong tiết dạy. Thêm vào đó khả năng sử dụng ngôn ngữ của Giáo viên cũng còn nhiều hạn chế nên dẫn đến kết quả học tập phân môn tập làm văn chưa cao.Cụ thể:
Kết quả kiểm tra phân môn tập làm văn Giữa học kỳ I của lớp 4A Trường tiểu học Lũng Cao II huyện Bá Thước như sau:
Tổng số
giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
26
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
1
3,8%
7
26,6%
13
50,4%
5
19%
 2. Nguyên nhân dẫn đến kết quả còn thấp:
 2.1. Đối với giáo viên:
 - Phần đa giáo viên có tư tưởng ngại dạy phân môn Tập làm văn vì phân môn tập làm văn thường khó dạy khi trình độ của học sinh còn thấp.
 - Giáo viên chưa thực sự đầu tư nghiên cứu, tìm tòi phương pháp dạy tối ưu phù hợp với đối tượng học sinh của mình.
 - Tài liệu tham khảo ít và tâm lí ngại tham khảo tài liệu để phục vụ cho dạy học phục vụ cho môn học.
 -Khả năng ngôn ngữ của Giáo viên nhiều khi còn hạn chế chưa đủ đáp ứng yêu cầu day học phân môn.
 2.2. Đối với học sinh:
 - Các em ngại học phân môn Tập làm văn vì cho là khó,khả năng sử dụng từ ngữ của các em rất hạn chế,cách dùng từ đặt câu,đoạn nhiều khi không hợp lí dẫn đến không đúng,không đạt yêu cầu.
 - Không có tài liệu sách tham khảo, nếu có cũng không tham khảo vì khả năng đọc của học sinh còn hạn chế thậm chí còn phải đánh vần mới đọc được.
 - Chưa coi trọng và không hiểu tầm quan trọng của môn học.
 II. một số biện pháp thực hiện
 Từ thực tế và những khó khăn trong dạy - học phân môn Tập làm văn,với mong muốn năng cao chất lượng dạy-học phân môn này,tôi mạnh dạn đề xuất một số các biện pháp dạy học chủ yếu như sau :
1. Biện pháp quy nạp để nhận biết đặc điểm của các loại bài văn:
1.1. Kiến thức làm văn trong sách được trình bày theo cách quy nạp. Từ những hiện tượng chứa đựng trong các văn bản điển hình, rút ra những điều cần ghi nhớ về từng loại văn, học sinh phải trải qua một số thao tác nhận diện hiện tượng so sánh, liệt kê, phân tích, tổng hợp... Để học sinh thực hiện trôi chảy các thao tác này, vai trò gợi ý, hướng dẫn từng bước cho học sinh rất quan trọng.
	Ví dụ : Bài Thế nào là kể chuyện ?
	Giáo viên có những gợi ý sau:
	- Gợi ý một số sự việc làm điểm tựa để học sinh nhớ và kể được câu chuyện “Sự tích Hồ Ba Bể” bằng chính ngôn ngữ của mình.
	- Gợi ý bằng câu hỏi và mẫu liệt kê để học sinh ghi lại được tên các nhân vật và các sự việc diễn ra trong câu chuyện.
	- Gợi ý tìm ý nghĩa câu chuyện.
	- Gợi ý học sinh so sánh nội dung bài “ Hồ Ba Bể ” với “ Sự tích Hồ Ba Bể ”để có thể kết luận bài “Hồ Ba Bể” không phải là bài văn kể chuyện mà chỉ là bài văn giới thiệu về Hồ Ba Bể.
	- Gợi ý học sinh hệ thống hoá các đặc điểm chủ yếu của câu chuyện, rút ra điều ghi nhớ.
1.2. Tuy nhiên, đôi khi để định hướng cho học sinh có thể xen kẽ dùng cách diễn dịch, hướng dẫn nhận diện, hiểu hiện tượng trong văn bản bằng cách cho học sinh đọc ghi nhớ để nhận diện đặc điểm trong các văn bản đó...
2. Biện pháp quy chiếu với chủ đề bài văn :
Thông thường, các đề bài luyện tập làm văn đều có định hướng chủ đề cho văn bản 
Ví dụ 1: Trên đường đi học về, em gặp một phụ nữ bế con, mang xách nhiều đồ đạc. Em đã giúp cô ấy xách đồ đạc đi một quãng đường. Hãy kể lại chuyện đó.
Ví dụ 2: Em hãy tả một con vật nuôi trong nhà mà em yêu thích.
 Việc quy chiếu vào chủ đề văn bản dường như là chuyện đương nhiên khi xây dựng một văn bản . Tuy nhiên không chú ý đến biện pháp này, sẽ không rèn luyện cho học sinh kĩ năng định hướng trong giao tiếp.
 -Biện pháp này được lưu ý trong quá trình tổ chức cho học sinh thực hiện rèn luyện các kĩ năng cho từng bộ phận tiến tới toàn thể một văn bản hoàn chỉnh. Đó là :
	- Khi tổ chức phân tích đề bài, cần tìm được chủ đề của bài văn (ý nghĩa của nội dung văn bản) 
	- Khi hướng dẫn học sinh tìm ý, lập dàn ý xây dựng nhân vật triển khai câu chuyện, kết chuyện đều chú ý phục vụ chủ đề,xoay quanh chủ đề.
	- Khi hướng dẫn, gợi ý học sinh lựa chọn từ ngữ, chọn hình ảnh, đặt câu.lập đoạn sao cho phù hợp với chủ đề bài văn
	- Khi chấm chữa trong bài cũng phải căn cứ chủ đề bài văn để đánh giá, nhận xét nội dung và hình thức diễn đạt.
3. Biện pháp tổ chức quan sát đối tượng :
Luyện tập quan sát vừa giúp cho học sinh tích luỹ vốn sống vừa phát triển vốn từ, rèn luyện tư duy logic, tư duy hình tượng trong bài văn. Biện pháp hướng dẫn học sinh quan sát không thể thiếu khi dạy văn miêu tả đồ vật, miêu tả nhân vật trong bài văn kể chuyện.
Sử dụng biện pháp này cần lưu ý:
 - Chọn đối tượng, vị trí, thời gian, đặc điểm quan sát sao cho tất cả học sinh đều được quan sát và tạo được hứng thú thực hiện quan sát.
 - Hướng dẫn học sinh trình tự quan sát hợp lý, quan sát từ bao quát đến nhưng chi tiết nhỏ lẻ ,biết chú ý những đặc điểm nổi bật của sự vật hiện tượng.
 - Hướng dẫn cách ghi chép kết quả quan sát sao cho vừa ngắn gọn vừa đầy đủ.
 - Tôn trọng những nhận xét riêng, cảm nghĩ riêng của HS về đối tượng quan sát 
 Ví dụ: Hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý cho đề bài”Hãy tả một cây mà em yêu thích nhất” giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát bằng các giác quan:
 + Bằng thị giác: Quan sát để thấy thân cây ,cành cây,lá cây,màu lá,màu thân
 + Tri giác bằng khứu giác: Mùi thơm của hoa ,quả chín,lá
 + Tri giác bằng thính giác: Nghe tiếng lá xào xạc khi gió thổi,tiếng chim hót trên cành
 - Giáo viên hướng dẫn các em học tập những đoạn văn mà các nhà văn đã viết (có trong chương trình) để học tập kinh nghiệm qua các quan sát,cách dùng từ đặt câu,viết đoạn
 - Quan sát phải gắn liền với liên tưởng,so sánh với các sự vật hiện tượng khác để cho bài văn thêm sinh động.
4. Biện pháp giúp học sinh kết hợp tưởng tượng và liên tưởng:
Trong dạy học tập làm văn tưởng tượng đóng vai trò đặc biệt quan trọng.Nhờ có tưởng tượng mà hình ảnh,màu sắc âm thanhđều thể hiên ra một cách sống động.Nhờ có tưởng tượng mà người viết đã cho chúng ta thấy những cảnh đẹp chưa hề thấy trong thực tế.
 Song muốn phát triển được trí tưởng tượng,liên tưởng cho học sinh giáo viên cần phải hướng học sinh nắm thực tếcó nội tâm phong phú ,có trí tuệ tốt,biết thể hiện cá tính và cái nhìn riêng của mình.Để làm được như vậy,Giáo viên cần:
 -Lấy nhiều ví dụ ở các bài văn,bài tập đọc (ngay trong chương trình đã học) để học sinh hiểu như thế nào là tưởng tượng để vận dụng.
-Học sinh học theo cách tưởng tượng để biến thành của mình viết thành đoạn văn theo yêu cầu nhất địnhcủa Giáo viên.Giáo viên giúp đỡ học sinh,hướng dẫn học sinh thực hành cho quen và vận dụng có hiệu quả.
5. Biện pháp giúp học sinh biết cách thể hiên tình cảm ,cảm xúc:
-Khi học phân môn Tập làm văn người học cần bộc lộ tình cảm,cảm xúc có như vậy bài văn,câu chuyện mới có hồn,nhờ có hồn nên bài viết trở nên sinh động,đi sâu vào tâm hồn người đọc,tuy nnhiên tình cảm,xúc cảm phải chân thành,không gượng ép thì mới hay.
Ví dụ:Có học sinh viết về hoa phượng :”Những cánh hoa phượng đỏ tươi mọc ra từ kẽ lá như đang e ấp trước ánh mắt những cô cậu học trò tinh nghịch. Đứng ngắm những bông hoa, em thấy nỗi buồn trào dâng khi nghĩ đến ngày phải chia tay bạn bè ,thầy cô và mái trường”
 6 . Biện pháp giúp học sinh biết cách sử dụng từ ngữ và các biện pháp tu từ:
Vốn từ ngữ của các em còn vô cùng nghèo nàn nên việc cung cấp cũng như hướng dẫn các em sử dụng từ ngữ để viết văn và kể chuyện là yếu tố rất quan trọng.Bởi vậy giáo viên cần giúp học sinh:
 +Biết làm giàu vốn từ,học sinh phải công phu để chắt lọcbằng khó khăn của trí não để chọn được những biện pháp tu từ như ;so sánh,nhân hoá,những biện pháp không thể thiếu trong khi học văn.
+Biết sử dụng ngôn ngữ giàu tính văn chương dựa vào việc biết sử dụng các lớp từ: tính từ,từ tượng thanh ,từ tượng hình từ láyTừ một mà xanh,màu đỏ ,màu vàngđều có thể thể hiện bằng nhiều cách khác nhau để tạo nên những gam màu khác nhau giúp hình ảnh trở nên phong phú,giàu chất văn.
 Ví dụ:Thảo quả chín dần.Dưới tầng đáy rừng,tựa như đột ngột,bỗng rực lên những chùm thảo quả đr chon chót,bóng bẩy nhưchứa lửa,ch’á nắng”
 +Biết cách vận dụng linh hoạt,phù hợp các biện pháp tu từ như: so sánh nhân hoá,ẩn dụ,hoán dụ,đảo ngữtạo nên sự hoà đồng vừa giàu cảm xúc gợi cảm,vừa gần gũi,vừa gợi tả..
 Ví dụ: :”Mưa mùa xuân xôn xao,phơi phới.Những hạt mưa bé nhỏ,mềm mảiơi mà như nhảy nhót.Hạt nọ tiếp hạt kia đậu xuống lá cây ổi còng mọc lả xuống mặt ao,mùa đông xám xỉn và khô héo đã qua.Mặt đất đã kiệt sức bừng thức dậy,âu yếm đón lấy những giọt mưa ấm áp,trong lành.”
 7. Biện pháp luyện tập thực hành kĩ năng nói, viết :
Biện pháp thực hành sản sinh văn bản nói, viết là biện pháp đặc trưng của phân môn Tập làm văn. ở lớp bốn tuy có cung cấp một số kiến thức về làm văn cho học sinh, nhưng các kiến thức đó được hình thành chủ yếu qua thực hành luyện tập. Hơn thế nữa các kĩ năng sản sinh văn bản của học sinh chỉ trở nên thành thạo khi từng học sinh được luyện tập nói, viết nhiều lần.
Sử dụng biện pháp này cần lưu ý :
	- Gợi ý để học sinh tìm hiểu đúng, đủ các lệnh luyện tập, giúp các em định hướng hoạt động ngôn ngữ
	- Gợi ý các việc làm để thực hiện đúng yêu cầu luyện tập 
	- Theo dõi giúp đỡ học sinh yếu kém, tạo niềm tin cho hành động nói, viết thành văn bản của những đối tượng này.
	- Kiểm tra, đánh giá, uốn nắn kịp thời cách diến đạt của học sinh.
 8. Biện pháp cùng tham gia (nhóm,đóng vai..) :
Để tạo thêm điều kiện hoạt động học tập của học sinh trong giờ làm văn, ở một số hoạt động, Giáo viên sử dụng biện pháp cùng tham gia. Biện pháp này tổ chức được nhiều Hhọc sinh cùng cộng tác thực hành luyện tập một kĩ năng bộ phận nào đó trong làm văn. Đó là các trường hợp trao đổi, phát hiện, tổng hợp các đặc điểm của loại văn bản, trao đổi về kết quả quan sát, tìm ý cho một câu chuyện, trao đổi ý kiến theo đề tài , đánh giá một sản phẩm nói, viết của học sinh. 
 Hình thức thực hiện biện pháp cùng tham gia là luyện tập thực hành theo nhóm, luyện tập thực hành bằng đóng vai.
Ví dụ : Bài Điền vào giấy tờ in sẵn 
Sau khi học sinh thực hành điền vào phiếu bài tập, tổ chức cho học sinh đóng vai tình huống: 
	 + Chấp hành tốt việc khai báo tạm trú, tạm vắng.
	 + Chưa chấp hành tốt việc khai báo tạm trú tạm vắng.
 9. Biện pháp cá thể hoá sản phẩm văn bản nói, viết của HS :
Một văn bản nói , viết trong giao tiếp phải là sản phẩm của mỗi cá nhân, diễn đạt tư tưởng, tình cảm mang dấu ấn cá nhân. Nếu không chú ý biện pháp cá thể hoá trong quá trình rèn luyện các kĩ năng làm văn, người dạy thường thu được những đoạn văn, bài văn sao chép từ các bài văn mẫu sơ lược, sáo mòn như nhau 
	Thực hiện biện pháp này cần lưu ý :
9.1. Tạo nhiều tình huống giao tiếp để học sinh lựa chọn. 
9.2. Gợi ý nhiều chất liệu khác nhau cho học sinh vận dụng các mô hình mẫu để thực hành nói, viết, hạn chế cách sao chép nguyên xi mô hình mẫu
Ví dụ :
- Cùng tả đồ vật, cho mỗi em chọn một đồ vật ưa thích 
- Cùng đề tài trao đổi với người thân, nói hoặc viết cho học sinh được chọn đối tượng trao đổi hoặc cùng đối tượng trao đổi, cho học sinh chọn đề tài trao đổi 
9.3. Tôn trọng những phát hiện riêng của từng học sinh trong quan sát, tìm ý và trong diễn đạt. Thận trọng khi đánh giá, sửa chữa bài làm của học sinh, tạo điều kện để học sinh tự phát hiện và sửa chữa lỗi làm văn 
	- Biện pháp này đòi hỏi Giáo viên trong giờ dạy Tập làm văn phải chú ý đến từng cá nhân học sinh.
 III. kết quả thực hiện:
 So với kết quả kiểm tra giữa học kỳ I chất lượng phân môn tập làm văn của học sinh Lớp 4A được nâng lên rõ rệt. các em không còn ngại học tiết tập làm văn, đang dần biết cách làm bài. Cụ thể là kết quả kiểm tra cuối học kỳ I như sau:
Tổng số
giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
26
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
3
11,5%
14
53,9%
9
34,6%
 Nhìn chung sau khi vận dụng các biện pháp nêu ở trên thì chất lượng phân môn Tập làm văn đang có những chuyển biến tích cực.
	c. Kết luận chung
 1. Kết luận :
 Qua quá trình công tác, chúng ta thấy phương pháp dạy học của giáo viên tác động và ảnh hưởng lớn đến học tập của học sinh nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng vì vậy đổi mới phương pháp dạy học phù hợp là một việc làm vô cùng cần thiết.
Là người giáo viên đặc biệt là một giáo viên tiểu học chúng ta phải có lòng yêu nghề,mến trẻ ,tận tuỵ với công việc,không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ ,chuyên môn nghiệp vụ.Giáo viên phải là người được học sinh tin yêu,là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho học sinh.bên cạnh đó phải là người hiểu được tâm lí lứa tuổi học sinh để từ đó vận dụng những phương pháp dạy học phù hợp.Mặt khác học sinh cũng phảI siêng năng cần cù,độc lập,sáng tạo,không nản trí trước khó khăn thử thách thì mới mong đạt được hiệu quả cao.
 2. ý kiến đề xuất:
 2.1. Đối với nhà trường:
 - Ban giám hiệu phải thường xuyên dự giờ góp ý để giáo viên điều chỉnh phương pháp dạy học phù hợp.
 - Thư viện nhà trường phải mua bổ sung các tài liệu, sách tham khảo cho giáo viên và học sinh. Cơ sở vật chất phải đảm bảo đúng quy định cho học sinh hoạt động nhóm.
 2.2. Đới với giáo viên:
 - Không nên coi phân môn Tập làm văn là phân môn phụ ,khó dạy ngại dạy, phải thực sự nghiên cứu bài trước khi lên lớp cùng với đó là thay đổi các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp với từng bài để gây hứng thú học tập cho học sinh.
 - Thường xuyên học tập bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ
 2.3. Đối với học sinh:
 - Không nên coi môn Tập làm văn là môn học khó, ngại học, phải chăm học, tự giác hoạt động để chiếm lĩnh kiến thức.đọc thêm các sách tham khảo, bài văn mẫu để học tập.
 2.4.Đối với gia đình học sinh:
 Đề nghị gia đình học sinh quan tâm hơn nữa tới việc học của con em mình về thời gian,giờ giấc,đồ dùng học tập
 Trên đây, tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp và những kiến nghị ,đề nghị, với mong muốn phần nào đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Tập làm văn nói riêng và dạy học nói chung .Rất mong các đồng chí,đồng nghiệp tham khảo và bổ sung để tôi hoàn thiện hơn trong công tác.
 Tôi xin chân thành cảm ơn.
 Lũng Cao,ngày 15 tháng 3 năm 2010
 Người viết
 Phạm Văn Tuấn

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKNTLV LOP4.doc