Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và sự thách thức trước nguy cơ tụt hậu trong cạnh tranh trí tuệ đang đòi hỏi phải đổi mới giáo dục, trong đó có sự đổi mới cơ bản về phương pháp dạy học. Những phương pháp dạy học kích thích sự tìm tòi, đòi hỏi sự tư duy của học sinh được đặc biệt chú ý. Mục tiêu giáo dục của Đảng đã chỉ rõ: “ Đào tạo có chất lượng tốt những người lao động mới có ý thức và đạo đức xã hội chủ nghĩa, có trình độ văn hoá phổ thông và hiểu biết kỹ thuật, có kỹ năng lao động cần thiết, có óc thẩm mỹ, có sức khoẻ tốt ”. Muốn đạt được mục tiêu này thì dạy và học Toán trong trường phổ thông là một khâu quan trọng của quá trình dạy học. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng nói về vị trí vai trò của bộ môn Toán: “ Trong các môn khoa học và kỹ thuật, toán học giữ một vị trí nổi bật. Nó có tác dụng lớn đối với kỹ thuật, với sản xuất và chiến đấu. Nó là một môn thể thao của trí tuệ, giúp chúng ta nhiều trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết các vấn đề, giúp chúng ta rèn luyện trí thông minh sáng tạo.
MỘT SỐ BIÊN PHAP GIÚP HỌC SINH LỚP 1 “GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN” Phần 1: Cơ sở khoa học I – Cơ sở lý luận Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và sự thách thức trước nguy cơ tụt hậu trong cạnh tranh trí tuệ đang đòi hỏi phải đổi mới giáo dục, trong đó có sự đổi mới cơ bản về phương pháp dạy học. Những phương pháp dạy học kích thích sự tìm tòi, đòi hỏi sự tư duy của học sinh được đặc biệt chú ý. Mục tiêu giáo dục của Đảng đã chỉ rõ: “ Đào tạo có chất lượng tốt những người lao động mới có ý thức và đạo đức xã hội chủ nghĩa, có trình độ văn hoá phổ thông và hiểu biết kỹ thuật, có kỹ năng lao động cần thiết, có óc thẩm mỹ, có sức khoẻ tốt”. Muốn đạt được mục tiêu này thì dạy và học Toán trong trường phổ thông là một khâu quan trọng của quá trình dạy học. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng nói về vị trí vai trò của bộ môn Toán: “ Trong các môn khoa học và kỹ thuật, toán học giữ một vị trí nổi bật. Nó có tác dụng lớn đối với kỹ thuật, với sản xuất và chiến đấu. Nó là một môn thể thao của trí tuệ, giúp chúng ta nhiều trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết các vấn đề, giúp chúng ta rèn luyện trí thông minh sáng tạo. Nó còn giúp chúng ta rèn luyện nhiều đức tính quý báu khác nh: Cần cù và nhẫn nại, tự lực cánh sinh, ý chí vượt khó, yêu thích chính xác, ham chuộng chân lý.” Để đáp ứng những yêu cầu mà xã hội đặt ra, Giáo dục và đào tạo phải có những cải tiến, điều chỉnh, phải thay đổi về nội dung chương trình, đổi mới phương pháp giảng dạy cho phù hợp. Hội nghị BCH trung ơng khoá VIII lần thứ 2 đã chỉ rõ: ” Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện tưduy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến, phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học”. Trong luật Giáo dục, Khoản 2, điều 24 đã ghi: ” Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác , chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Đổi mới cách thực hiện PPDH là vấn đề then chốt của chính sách đổi mới giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đổi mới cách thực hiện PPDH sẽ làm thay đổi tận gốc nếp nghĩ, nếp làm của các thế hệ học trò – chủ nhân tương lai của đất nớc. Như vậy, đổi mới PPDH sẽ tác động vào mọi thành tố của quá trình giáo dục và đào tạo. Nó tạo ra sự hiện đại hoá của quá trình này. Đổi mới PPDH thực chất không phải là sự thay thế các PPDH cũ bằng một loạt các PPDH mới. Về mặt bản chất, đổi mới PPDH là đổi mới cách tiến hành các phương pháp, đổi mới phương tiện và hình thức triển khai phương pháp trên cơ sở khai thác triệt để u điểm các phương pháp cũ và vận dụng linh hoạt một số phương pháp mới nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Mục đích của đổi mới PPDH chính là làm thế nào để HS phải thực sự tích cực, chủ động, tự giác, luôn trăn trở tìm tòi, suy nghĩ và sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức và lĩnh hội cả cách thức để có được tri thức ấy nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình.Mặt khác môn toán thiết thực góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học theo đặc trưng và khả năng của môn Toán, cụ thể là chuẩn bị cho học sinh những tri thức , kỹ năng toán học cơ bản cần thiết cho việc học tập hoặc bước vào cuộc sống lao động. Đối với môn Toán lớp 1, môn học có vị trí nền tảng, là cái gốc, là điểm xuất phát của cả một bộ môn khoa học. Môn Toán mở đường cho các em đi vào thế giới kỳ diệu của toán học. Rồi mai đây, các em lớn lên , nhiều em trở thành vĩ nhân, trở thành anh hùng, nhà giáo, nhà khoa học, nhà thơ trở thành những người lao động sáng tạo trên mọi lĩnh vực sản xuất và đời sống ; trên tay có máy tính xách tay, trong túi có máy tính bỏ túi nhng không bao giờ các em quên được những ngày đầu tiên đến trường học đếm và tập viết 1, 2, 3 học các phép tính cộng, trừ Các em không quên được vì đó là kỷ niệm đẹp đẽ nhất của đời người và hơn thế nữa, những con số, những phép tính ấy cần thiết cho suốt cả cuộc đời. Đối với mạch kiến thức : “Giải toán có lời văn”, là một trong năm mạch kiến thức cơ bản xuyên suốt chương trình Toán cấp tiểu học. Thông qua giải toán có lời văn, các em được phát triển trí tuệ, được rèn luyện kỹ năng tổng hợp: đọc, viết, diễn đạt, trình bày, tính toán. Toán có lời văn là mạch kiến thức tổng hợp của các mạch kiến thức toán học, giải toán có lời văn các em sẽ được giải các loại toán về số học, các yếu tố đại số, các yếu tố hình học và đo đại lượng. Toán có lời văn là chiếc cầu nối giữa toán học và thực tế đời sống, giữa toán học với các môn học khác. II – Cơ sở thực tiễn 1) Về học sinh Trong các tuyến kiến thức toán ở chương trình toán Tiểu học thì tuyến kiến thức “Giải toán có lời văn” là tuyến kiến thức khó khăn nhất đối với học sinh, và càng khó khăn hơn đối với học sinh lớp Một. Bởi vì đối với lớp Một: Vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng tư duy lôgic của các em còn rất hạn chế. Một nét nổi bật hiện nay là nói chung học sinh cha biết cách tự học, cha học tập một cách tích cực. Nhiều khi với một bài toán có lời văn các em có thể đặt và tính đúng phép tính của bài nhưng không thể trả lời hoặc lý giải là tại sao các em lại có được phép tính như vậy. Thực tế hiện nay cho thấy, các em thực sự lúng túng khi giải bài toán có lời văn. Một số em cha biết tóm tắt bài toán, cha biết phân tích đề toán để tìm ra đường lối giải, cha biết tổng hợp để trình bày bài giải, diễn đạt vụng về, thiếu lôgic. Ngôn ngữ toán học còn rất hạn chế, kỹ năng tính toán, trình bày thiếu chính xác, thiếu khoa học, cha có biện pháp, phương pháp học toán, học toán và giải toán một cách máy móc nặng về rập khuôn, bắt chước. 1.1. Kết quả khảo sát giưa kỳ II Đề bài: Lớp 1A trồng được 24 cây, lớp 1B trồng được 30 cây. Hỏi cả 2 lớp trồng được bao nhiêu cây? Giỏi 9 , 10 1/7 Trình bày còn bẩn Khá 7 , 8 2/7 Trình bày còn bẩn, câu lời giải chưa chuẩn Trung bình 5 , 6 2/7 Chỉ làm đúng phép tính, và đáp số đúng, sai tên đơn vị, sai câu lời giải Yếu Dới 5 2/7 Không biết làm bài. 2.2 Ưu điểm - Phần lớn học sinh biết làm bài toán có lời văn. Kết quả của bài toán đúng. - Học sinh ham học, có hứng thú học tập môn Toán nói chung và “Giải bài toán có lời văn” nói riêng. - Học sinh bước đầu biết vận dụng bài toán có lời văn vào thực tế. 2.3. Hạn chế - Trình bày bài làm còn chưa sạch đẹp. - Một số học sinh chưa biết cách đặt câu lời giải phù hợp. - Một số ít học sinh không hiểu nội dung bài toán có lời văn dẫn đến không làm được bài. 2) Về đồ dùng dạy học : Tư duy của học sinh lớp Một là tư duy cụ thể, để học sinh học tốt “Giải toán có lời văn” trong quá trình giảng dạy rất cần đồ dùng thiết bị dạy học để minh hoạ. Trong những năm qua, các trường tiểu học đã được cung cấp khá nhiều trang thiết bị và đồ dùng dạy học đồng bộ để dạy cho cả cấp học và những bộ va-li để dạy theo lớp nhưng số lượng vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu dạy “Giải toán có lời văn”. 3) Về giáo viên Vẫn còn một số giáo viên chuyển đổi phương pháp giảng dạy còn lúng túng, chưa phát huy được tích cực chủ động của học sinh. Một số giáo viên chưa biết cách dạy loại Toán có lời văn, không muốn nói là làm cho bài toán trở nên phức tạp, khó hiểu hơn. Một số giáo viên ngại sử dụng đồ dùng minh hoạ, ngại tóm tắt bằng sơ đồ hình vẽ hoặc đoạn thẳng, sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp trong việc giúp học sinh tìm đường lối giải và giải toán còn khó hiểu. 4) Những sai lầm và khó khăn thường gặp của giáo viên và học sinh khi dạy và học tuyến kiến thức : “Giải toán có lời văn” ở lớp 1. Về mặt nhận thức giáo viên còn coi việc dạy cho học sinh “Giải toán có lời văn” cho học sinh lớp 1 là đơn giản, dễ dàng nên chưa tìm tòi nghiên cứu để có phương pháp giảng dạy có hiệu quả. Vốn từ, vốn kiến thức, kinh nghiệm thực tế của học sinh lớp 1 còn rất hạn chế nên khi giảng dạy cho học sinh lớp 1 giáo viên đã diễn đạt như với các lớp trên làm học sinh lớp 1 khó hiểu và không thể tiếp thu được kiến thức và không đạt kết quả tốt trong việc giải các bài toán có lời văn. Khả năng phối hợp, kết hợp với nhiều phương pháp để dạy tuyến kiến thức: “Giải toán có lời văn” ở lớp 1 còn thiếu linh hoạt. Giáo viên còn lúng túng khi tạo các tình huống sư phạm để nêu vấn đề. Chưa khuyến khích động viên và giúp đỡ một cách hợp lý các nhóm cũng như các đối tượng học sinh trong quá trình học. Khả năng kiên trì của học sinh lớp 1 trong quá trình học nói chung cũng như học “Giải toán có lời văn” nói riêng còn chưa cao. III/ Quá trình nghiên cứu - Năm học 2011 – 2012 tôi được phân công dạy lớp 1. Trong suốt năm học tôi tìm hiểu, ghi chép tập hợp những ưu điểm, thiếu sót của học sinh trong lớp về ” Giải toán có lời văn”. Tôi đã mạnh dạn trao đổi cùng Ban giám hiệu, bạn bè đồng nghiệp trong và ngoài trường về những ưu điểm và thiếu sót của học sinh lớp 1 nói chung trong việc ” Giải toán có lời văn”, đồng thời trao đổi, bàn bạc và đề xuất một số ý kiến để phát huy ưu điểm và khắc phục thiếu sót của học sinh và giáo viên. Từ cơ sở lý luận và thực tiễn, qua thực tế giảng dạy tôi xin mạnh dạn đề xuất một số kinh nghiệm: Nâng cao chất lượng giảng dạy tuyến kiến thức “Giải toán có lời văn” ở lớp Một Phần II: Nội dung I/ Những nội dung được đề cập trong Sáng kiến kinh nghiệm 1) Nắm bắt nội dung chương trình. 2) Sử dụng đồ dùng thiết bị trong dạy ” Giải toán có lời văn”. 3) Dạy “Giải toán có lời văn” ở lớp Một. 4) Một số phương pháp thường sử dụng trong giảng dạy “Giải toán có lời văn” ở lớp II/ Biện pháp giải quyết 1) Nắm bắt nội dung chương trình Để dạy tốt môn Toán lớp 1 nói chung, “Giải bài toán có lời văn” nói riêng, điều đầu tiên mỗi giáo viên phải nắm thật chắc nội dung chương trình, sách giáo khoa. Nhiều người nghĩ rằng Toán tiểu học, và đặc biệt là toán lớp 1 thì ai mà chả dạy được. Đôi khi chính giáo viên đang trực tiếp dạy cũng rất chủ quan và cũng có những suy nghĩ tương tự như vậy. Qua dự giờ một số đồng chí giáo viên tôi nhận thấy giáo viên dạy bài nào chỉ cốt khai thác kiến thức của bài ấy, còn các kiến thức cũ có liên quan giáo viên nắm không thật chắc. Người ta thường nói ” Biết 10 dạy 1″ chứ không thể ” Biết 1 dạy 1″ vì ... Ví dụ: Từ dòng cuối của tóm tắt: “Có tất cả: con gà ?”. Học sinh viết câu lời giải: “Nhà An có tất cả:” * Cách 4: Giáo viên nêu miệng câu hỏi: “Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà?” để học sinh trả lời miệng: “Nhà An có tất cả 9 con gà” rồi chèn phép tính vào để có cả bước giải (gồm câu lời giải và phép tính): Nhà An có tất cả: 5 + 4 = 9 (con gà) * Cách 5: Sau khi học sinh tính xong: 5 + 4 = 9 (con gà), giáo viên chỉ vào 9 và hỏi: “9 con gà ở đây là số gà của nhà ai?” (là số gà nhà An có tất cả). Từ câu trả lời của học sinh ta giúp các em chỉnh sửa thành câu lời giải: “Số gà nhà An có tất cả là” v.v ở đây giáo viên cần tạo điều kiện cho các em tự nêu nhiều câu lời giải khác nhau, sau đó bàn bạc để chọn câu thích hợp nhất. Không nên bắt buộc trẻ nhất nhất phải viết theo một kiểu. c) Trình bày bài giải Có thể coi việc trình bày bài giải là trình bày một sản phẩm của tư duy. Thực tế hiện nay các em học sinh lớp 1 trình bày bài giải còn rất hạn chế, kể cả học sinh khá giỏi. Cần rèn cho học sinh nề nếp và thói quen trình bày bài giải một cách chính xác, khoa học, sạch đẹp dù trong giấy nháp, bảng lớp, bảng con hay vở, giấy kiểm tra. Cần trình bày bài giải một bài toán có lời văn như sau: Bài giải Nhà An có tất cả là: 5 + 4 = 9 ( con gà ) Đáp số : 9 con gà Nếu lời giải ghi: “Số gà nhà An là:” thì phép tính có thể ghi: “5 + 4 = 9 (con)”. (Lời giải đã có sẵn danh từ “gà”). Tuy nhiên nếu học sinh viết quá chậm mà lại gặp phải các từ khó như “thuyền, quyển, ” thì có thể lược bớt danh từ cho nhanh. Giáo viên cần hiểu rõ lý do tại sao từ “con gà” lại được dặt trong dấu ngoặc đơn? Đúng ra thì 5 + 4 chỉ bằng 9 thôi (5 + 4 = 9) chứ 5 + 4 không thể bằng 9 con gà được. Do đó, nếu viết: “5 + 4 = 9 con gà” là sai. Nói cách khác , nếu vẫn muốn được kết quả là 9 con gà thì ta phải viết như sau mới đúng: “5 con gà + 4 con gà = 9 con gà”. Song cách viết phép tính với các danh số đầy đủ như vậy khá phiền phức và dài dòng, gây khó khăn và tốn nhiều thời gian đối với học sinh lớp 1. Ngoài ra học sinh cũng hay viết thiếu và sai như sau: 5 con gà + 4 = 9 con gà 5 + 4 con gà = 9 con gà 5 con gà + 4 con gà = 9 Về mặt toán học thì ta phải dừng lại ở 9, nghĩa là chỉ được viết 5 + 4 = 9 thôi. Song vì các đơn vị cũng đóng vai trò rất quan trọng trong các phép tính giải nên vẫn phải tìm cách để đưa chúng vào phép tính. Do đó, ta mới ghi thêm đơn vị “con gà” ở trong dấu ngoặc đơn để chú thích cho số 9 đó. Có thể hiểu rằng chữ “con gà” viết trong dấu ngoặc ở đây chỉ có một sự ràng buộc về mặt ngữ nghĩa với số 9, chứ không có sự ràng buộc chặt chẽ về toán học với số 9. Do đó, nên hiểu: 5 + 4 = 9 (con gà) là cách viết của một câu văn hoàn chỉnh như sau: “5 + 4 = 9, ở đây 9 là 9 con gà”. Như vậy cách viết 5 + 4 = 9 (con gà) là một cách viết phù hợp. Trong đáp số của bài giải toán thì không có phép tính nên ta cứ việc ghi: “Đáp số : 9 con gà” mà không cần ngoặc đơn. d) Kiểm tra lại bài giải Học sinh Tiểu học đặc biệt là học sinh lớp Một thường có thói quen khi làm bài xong không hay xem, kiểm tra lại bài đã làm. Giáo viên cần giúp học sinh xây dựng thói quen học tập này. Cần kiểm tra về lời giải, về phép tính, về đáp số hoặc tìm cách giải hoặc câu trả lời khác. 3.2/ Biện pháp khắc sâu loại “Bài toán có lời văn” Ngoài việc dạy cho học sinh hiểu và giải tốt “Bài toán có lời văn” giáo viên cần giúp các em hiểu chắc, hiểu sâu loại toán này. ở mỗi bài, mỗi tiết về “Giải toán có lời văn” giáo viên cần phát huy tư duy, trí tuệ, phát huy tính tích cực chủ động của học sinh bằng việc hướng cho học sinh tự tóm tắt đề toán, tự đặt đề toán theo dữ kiện đã cho, tự đặt đề toán theo tóm tắt cho trước, giải toán từ tóm tắt, nhìn tranh vẽ, sơ đồ viết tiếp nội dung đề toán vào chỗ chấm (), đặt câu hỏi cho bài toán. Ví dụ 1: Nhìn tranh vẽ, viết tiếp vào chỗ chấm để có bài toán, rồi giải bài toán đó: Bài toán: Dưới ao có con vịt, có thêm con vịt nữa chạy xuống. Hỏi ..? Ví dụ 2: Giải bài toán theo tóm tắt sau: Có : 7 hình tròn Tô màu : 3 hình tròn Không tô màu : ... hình tròn? 3.3/ Một số phương pháp thường sử dụng trong dạy: ”Giải bài toán có lời văn” ở lớp Một. a) Phương pháp trực quan Khi dạy “Giải bài toán có lời văn” cho học sinh lớp 1 thường sử dụng phương pháp trực quan giúp học sinh tìm hiểu đề bài, tóm tắt đề toán thông qua việc sử dụng tranh ảnh, vật mẫu, sơ đồ giúp học sinh dễ hiểu đề bài hơn từ đó tìm ra đường lối giải một cách thuận lợi. Đặc biệt trong sách giáo khoa Toán 1 có hai loại tranh vẽ giúp học sinh “Giải toán có lời văn” đó là: một loại gợi ra phép cộng, một loại gợi ra phép trừ. Như vậy chỉ cần nhìn vào tranh vẽ học sinh đã định ra được cách giải bài toán. Trong những trường hợp này bắt buộc giáo viên phải sử dụng tranh vẽ và phương pháp trực quan. b) Phương pháp hỏi đáp (đàm thoại) Sử dụng khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu, phân tích đề bài, tìm đường lối giải, chữa bài làm của học sinh c) Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề. Với mục đích giúp các em khắc sâu những kiến thức về “Giải toán có lời văn” trong quá trình giảng dạy giáo viên nên áp dụng phương pháp dạy học này. ở mỗi dạng toán “thêm, bớt” giáo viên có thể biến tấu để có những bài toán có vấn đề. Chẳng hạn bài toán “bớt” trở thành bài toán tìm số hạng, bài toán “thêm” trở thành bài toán tìm số trừ. Giáo viên có thể tạo tình huống có vấn đề bằng cách cho sẵn lời giải, học sinh tự đặt phép tính hoặc cho sẵn phép tính học sinh đặt câu lời giải. Cho hình vẽ học sinh đặt lời bài toán và giải. Với những tình huống khó có thể phối hợp với các phương pháp khác để giúp học sinh thuận lợi cho việc làm bài như : Phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp kiến tạo III/ Kết quả kiểm chứng - Năm học 2011 – 2012: Ap dụng kinh nghiệm vào thực tế giảng dạy, thực hiện 3 lần kiểm tra khảo sát. * Bảng kết quả kiểm chứng (Qua thực nghiệm áp dụng kinh nghiệm) Sĩ số 07 Kết quả thu được qua kiểm tra khảo sát Biết tóm tắt đề bài phù hợp Đặt câu lời giải phù hợp Làm phép tính và ghi danh số Ghi đáp số đúng, đủ * Phân tích kết quả: Nhìn bảng kết quả có thể nhận thấy tỷ lệ học sinh biết đặt phép tính và tính đúng, biết ghi đáp số đúng ngay từ khi chưa áp dụng kinh nghiệm tương đối cao và đồng đều. Dễ thấy số học sinh chưa biết tóm tắt đề toán, số học sinh chưa biết viết câu lời giải năm học này thấp hơn nhiều so với năm học trước. Một số sai sót mà học sinh thường mắc phải là: - Không biết tóm tắt hoặc tóm tắt không đúng. - Viết lời giải lung tung, không phù hợp với phép tính. - Ghi danh số ở phép tính và đáp số còn sai hoặc thiếu. - Trình bày bài giải chưa đẹp, chưa khoa học. Qua tổng hợp kết quả kiểm tra khảo sát ở cuối năm học (với đề bài tương tự như các năm học trước), số học sinh còn sai sót là rất ít. Phần III: kết luận và bài học kinh nghiệm Không có phương pháp dạy học nào là tối ưu hay vạn năng, chỉ có lòng nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm của người thầy với nghề nghiệp là mang lại kết quả cao trong giảng dạy, là chiếc chìa khoá vàng tri thức để mở ra cho các em cánh cửa khoa học vì một ngày mai tươi sáng. Đó là vinh dự và trách nhiệm của người giáo viên. Đó cũng là duyên nợ của người thầy. Duyên nợ với người, với nghề và nợ với mênh mông biển học. Trong khuôn khổ hạn hẹp của sáng kiến kinh nghiệm mà bản thân tôi chiêm nghiệm, trăn trở bằng một tình yêu nghề nghiệp, hy vọng nó sẽ cùng các bạn đồng nghiệp gần xa trao đổi để hoàn thành sứ mệnh vẻ vang mà Đảng và nhà nước trao cho nghề thầy giáo. Đối với học sinh lớp Một, các em thực sự là những mầm cây còn rất non nớt, để có được một cây to, cây khoẻ, mỗi giáo viên dạy lớp Một ngoài việc uốn nắn , buộc tỉa phải biết chăm sóc để các em được phát triển một cách toàn diện. Làm tốt việc dạy “Giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1” sẽ góp phần vô cùng quan trọng để phát triển trí tuệ cho các em một cách tổng hợp. Từ đó các em sẽ có một nền tảng vững chắc để học các môn học khác và tiếp tục học lên các lớp trên. 1) Bài học kinh nghiệm: - Mỗi giáo viên phải nắm vững nội dung chương trình, cấu trúc sách giáo khoa về “Giải toán có lời văn” ở lớp Một để xác định được trong mỗi tiết học phải dạy cho học sinh cái gì, dạy như thế nào? - Đối với học sinh tiểu học và đặc biệt là học sinh lớp Một, cần coi trọng sử dụng trực quan trong giảng dạy nói chung và trong dạy “Giải toán có lời văn” nói riêng, tuy nhiên cũng không vì thế mà lạm dụng trực quan hoặc trực quan một cách hình thức. - Dạy “Giải toán có lời văn” cho học sinh lớp Một không thể nóng vội mà phải hết sức bình tĩnh, nhẹ nhàng, tỷ mỉ, nhưng cũng rất cương quyết để hình thành cho các em một phương pháp tư duy học tập đó là tư duy khoa học, tư duy sáng tạo, tư duy lôgic. Rèn cho các em đức tính chịu khó cẩn thận trong “Giải toán có lời văn”. - Vận dụng các phương pháp giảng dạy phù hợp, linh hoạt phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. 2) Những vấn đề hạn chế còn tồn tại: Thực tế cho thấy chương trình môn toán lớp Một còn nặng ở một số bài, một số tiết về “Giải toán có lời văn” . Phần thời gian dành cho “Giải toán có lời văn” thường ở cuối tiết nên đôi khi bị phần trên lấn sang, làm cho nội dung này phải thực hiện một cách vội vàng, chưa thoả đáng. Còn có vướng mắc về từ ngữ đối với học sinh lớp Một nên cũng là một khó khăn trở ngại đối với giáo viên trong dẫn dắt gợi mở cho học sinh. Lời kết: Người xưa nói: “Ngôn dị – hành nan”, nói dễ làm khó. Tuy vậy tôi khẳng định với các bạn đồng nghiệp: Trên đây là những điều hết sức tâm huyết mà tôi đã thực hiện và thu được những kết quả rất khả quan trong năm học vừa qua. Chúng tôi rất mong Nhà trường Phòng giáo dục tạo điều kiện tổ chức cho chúng tôi những buổi hội thảo, trao đổi kinh nghiệm với những chuyên đề thiết thực về “Giải toán có lời văn” ở lớp Một để bổ trợ cho chúng tôi vốn kinh nghiệm chuyên môn, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học theo tinh thần đổi mới. Xin trân trọng cảm ơn! Ngày 15 tháng 4 năm 2012 Người thực hiện: Phạm Đức Song MỤC LỤC TT DANH MỤC TRANG CƠ SỞ KHOA HỌC I Cơ sở lí luận 1 II Cơ sở thực tiễn 2 III Quy trình nghiên cứu 4 NỘI DUNG I Những nội dung được đề cập trong Sáng kiến kinh nghiệm 4 II Biện pháp giải quyết 4 III Kết quả kiểm chứng 12 KẾT LUẬN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM I Bài học kinh nghiệm 13 II Những vấn đề hạn chế còn tồn tại 13
Tài liệu đính kèm: