Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp trong dạy và học giải toán có lời văn ở lớp Năm - Nguyễn Văn Cương

Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp trong dạy và học giải toán có lời văn ở lớp Năm - Nguyễn Văn Cương

I – LỜI NÓI ĐẦU:

 Toán học là một khoa học có vai trò quan trọng trong đời sống con người. Toán học giúp con người nhận thức và tri giác thế giới xung quanh về hình dạng và kích thước các sự vật hiện tượng. Tuy nhiên nó lại là một môn học tương đối khó khăn đối với học sinh tiểu học, không ít học sinh từng mơ rằng “Giá như trên đời không có môn Toán thì cuộc đời học sinh bớt khổ biết chừng nào”. Đó là một suy nghĩ tiêu cực song nó phản ánh một phần sự thật là không ít học sinh gặp khó khăn đối với môn Toán, tỉ lệ đó ở học sinh nông thôn lại càng đặc biệt cao.

 Toán học, bên cạnh việc giúp học sinh chiếm lĩnh một số kiến thức, kĩ năng phục vụ cho việc học tập và đời sống nó còn góp phần giáo dục và hình thành cho học sinh những phẩm chất cần thiết khác như tính cẩn thận, chính xác; có thói quen tư duy logíc, hợp lí; khả năng làm việc độc lập; khả năng liên tưởng, phán đoán, tổng hợp .

 

doc 14 trang Người đăng lilyphan99 Ngày đăng 10/01/2022 Lượt xem 459Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp trong dạy và học giải toán có lời văn ở lớp Năm - Nguyễn Văn Cương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I – LỜI NÓI ĐẦU:
	Toán học là một khoa học có vai trò quan trọng trong đời sống con người. Toán học giúp con người nhận thức và tri giác thế giới xung quanh về hình dạng và kích thước các sự vật hiện tượng. Tuy nhiên nó lại là một môn học tương đối khó khăn đối với học sinh tiểu học, không ít học sinh từng mơ rằng “Giá như trên đời không có môn Toán thì cuộc đời học sinh bớt khổ biết chừng nào”. Đó là một suy nghĩ tiêu cực song nó phản ánh một phần sự thật là không ít học sinh gặp khó khăn đối với môn Toán, tỉ lệ đó ở học sinh nông thôn lại càng đặc biệt cao.
	Toán học, bên cạnh việc giúp học sinh chiếm lĩnh một số kiến thức, kĩ năng phục vụ cho việc học tập và đời sống nó còn góp phần giáo dục và hình thành cho học sinh những phẩm chất cần thiết khác như tính cẩn thận, chính xác; có thói quen tư duy logíc, hợp lí; khả năng làm việc độc lập; khả năng liên tưởng, phán đoán, tổng hợp. 
	Nhiệm vụ cơ bản của việc dạy và học môn Toán trong nhà trường tiểu học là làm cho học sinh nắm được một hệ thống những kiến thức phổ thông, cơ bản hiện đại và những kỹ năng cơ bản (vận dụng kiến thức thực hành, suy luận,). Trên cơ sở đó phát triển các năng lực trí tuệ (năng lực nhận thức, tư duy, độc lập sáng tạo,) xây dựng tư tưởng, tình cảm, thái độ đúng đắn đối với các sự kiện, hiện tượng thực tiễn.
	Nhờ cách giải toán có lời văn mà học sinh có điều kiện rèn luyện và và phát triển năng lực tư duy, phương pháp suy luận và những phẩm chất của người lao động mới. Việc giải Toán có lời văn sẽ giúp học sinh giải quyết từng dạng vấn đề có tính chất thực tiễn, khi ra đời gặp vấn đề các em biết cách nghiên cứu vấn đề và tìm ra phương thức tối ưu để giải quyết vấn đề.
	Từ những suy nghĩ trên đã thôi thúc tôi tìm ra “Một số giải pháp trong dạy và học giải toán có lời văn ở lớp Năm” .
II – THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ:
1. Đối với học sinh:
	Lớp học do tôi chủ nhiệm có 19 học sinh, trong những tiết học Toán đầu năm thường chỉ có khoảng 20 – 30% học sinh cả lớp (đa số là học sinh khá giỏi) tích cực tham gia đóng góp ý kiến xây dựng bài. Số còn lại là 70 – 80% (gồm học sinh trung bình và yếu). Tuy trong lớp ngồi nghe rất trật tự nhưng cũng đồng nghĩa với việc không học được gì, giáo viên bảo gì nghe nấy, khi được gọi lên đọc đề bài thì ê a kéo dài cho qua chuyện Không động não trong suốt quá trình nghe giảng, do đó các em chẳng hiểu được gì, cùng lắm học thuộc công thức bài toán vì cho rằng chỉ cần học thuộc công thức là có thể áp dụng vào bài làm, thế nhưng khi gặp những bài toán có dữ kiện là ẩn số là các em đầu hàng không biết suy luận tìm dữ kiện.
	Là một trường thuộc vùng nông thôn nên nhận thức của các bậc cha mẹ và các em còn rất kém. Họ cho là cái học không phải là nhu cầu thiết yếu. Do vậy khi gởi con đến trường, phụ huynh coi như đã hết trách nhiệm, khoán trắng cho thầy cô với quan niệm học để biết chữ là xong Hầu hết các em thiếu tinh thần hăng say học tập, bản chất các em là nhút nhát, ít hoạt động ( so với trẻ thành thị), mặt khác ít chịu suy nghĩ tìm tòi. Các em có quan niệm đến trường để thầy cô dạy gì học nấy, không linh hoạt trong học tập cũng như nhạy bén trong hoạt động tư duy. Sáng tạo chỉ có ở các em qua trò chơi chứ ít có trong học tập đặc biệt là ở môn Toán. Một đặc điểm ở các em nữa là mặc cảm, tự ti, không muốn hơn thua ai. Học giỏi cũng tốt, học không giỏi thì về nhà làm ruộng, vườn cũng chả có gì làm buồn. Các em không có ý thức vươn lên, quanh năm suốt tháng không đi ra khỏi ấp, xã nơi các em ở nên chưa có cơ hội để mở rộng tầm nhìn.
2. Đối với giáo viên:
	Sau khi tìm hiểu vài thiết kế bài dạy của một số giáo viên lớp Năm trong trường, tôi nhận thấy tất cả giáo viên lên lớp đều có thiết kế bài dạy với đầy đủ các bước lên lớp đối với môn Toán và tất cả các môn khác, nhưng đa số còn nhầm lẫn giữa nội dung bài soạn và thao tác lên lớp. Có giáo viên bài soạn của họ là toàn bộ những gì họ sẽ nói, sẽ làm khi lên lớp, nhưng lại không xoáy sâu vào trọng tâm, cứ câu nệ máy móc sao cho đủ các bước lên lớp. Các câu hỏi không được soạn hệ thống logíc mà có khi rất rời rạc dẫn đến làm cho học sinh khó trả lời, hoặc không trả lời được.
	Bài soạn thường được giáo viên bám sát vào nội dung sách giáo viên, ít được phát huy sáng kiến, sáng tạo của người soạn. Hệ thống các câu hỏi phần dành để giảng giống hệt các câu dùng để củng cố kiến thức cơ bản.
	Một số giáo viên khi lên lớp cũng thực hiện đầy đủ các bước lên lớp nhưng chưa đảm bảo được sự lĩnh hội và ý thức phát triển của học sinh. Cấu trúc bài dạy kiến thức mới có khi đi rất nhanh làm cho học sinh chưa kịp nắm được bài. Lại có người do đi rất chậm nên đến độ gây nhàm chán cho học sinh. Có trường hợp khâu soạn và khâu giảng không khớp nhau (soạn một đàng dạy một nẻo) do vậy dẫn đến tình trạng lúng túng khi giảng, làm cho học sinh trở nên hoài nghi khả năng của thầy cô và không tập trung cao độ.
III – GIẢI PHÁP:
	Để khắc phục tình trạng trên, khi dạy và học giải toán có lời văn lớp Năm chúng ta cần nắm: 
- Phương pháp
- Quy trình dạy và học
1. Phương pháp:
	Một số khó khăn của việc dạy và học Toán có lời văn ở lớp Năm là sử dụng các phương pháp vào các bài toán sao cho có tính dễ hiểu, tính hướng đích, phù hợp với bài toán giải. Để có thể dạy và học tốt dạng toán này trước hết phải nắm được các phương pháp đặc trưng của môn Toán. Ngoài ra còn tuỳ tiết, tuỳ bài mà vận dụng để truyền thụ kiến thức mới cùng với các phương pháp dùng để dạy ôn luyện tập. Sau đây là một số phương pháp rất cần thiết để sử dụng trong việc dạy giải các bài toán có lời văn ở lớp Năm.
Phương pháp trực quan
Sử dụng phương pháp trực quan trong việc dạy giải toán có lời văn khác với sử dụng phương pháp trực quan trong việc truyền thụ kiến thức mới.
VD: Khi dạy bài toán 3 (trang 54 SGK)
 Một thùng đựng 28,75kg đường. Người ta lấy từ thùng đó ra 10,5kg đường, sau đó lại lấy ra 8kg đường nữa. Hỏi trong thùng còn lại bao nhiêu ki-lô-gam đường?
Để dạy bài toán này trực quan không có nghĩa là đem thùng đựng đường ra cho học sinh quan sát.
Trực quan ở đây là sơ đồ tóm tắt sao cho học sinh có thể tìm hiểu được đề, đồng thời suy nghĩ tìm ra cách giải đúng: 
28,75kg 
	 Lấy ra: 10,5kg ; 8kg
 Còn lại: ? kg 
 Cũng là quan sát bằng mắt nhưng trong trường hợp này là nhìn những con số để suy tìm cách giải qua các câu hỏi tìm hiểu đề và tìm cách giải của giáo viên.
	Sử dụng phương pháp trực quan trong việc dạy và học Toán có lời văn nói chung và lớp Năm nói riêng. Bởi vì có rất nhiều bài toán nếu không sử dụng tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng thì thật là khó đối với học sinh. Có những bài toán khi mới đọc đề thì có vẻ rất khó, rắc rối và phức tạp nhưng nếu tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng thì học sinh quan sát và làm được dễ dàng.
	VD: Khi dạy bài toán 4 (trang 52 SGK)
Một người thợ dệt ngày thứ nhất dệt được 28,4m vải, ngày thứ hai dệt nhiều hơn ngày thứ nhất 2,2m vải, ngày thứ ba dệt nhiều hơn ngày thứ hai 1,5m vải. Hỏi cả ba ngày người đó dệt được bao nhiêu mét vải?
28,4m
	Ta tóm tắt bài toán bằng sơ đồ như sau:
2,2m
	Ngày đầu:	
1,5m
Ngày thứ hai:	? m
	Ngày thứ ba	: 
Phương pháp thực hành luyện tập
Để thực hành luyện tập các kiến thức, kĩ năng toán học, thường phải sử dụng
phương pháp này . Trong các tiết luyện tập luyện tập và thực hành toán học (trong hoặc ngoài lớp) phương pháp dạy chủ yếu là thực hành, đặc biệt là khi dạy toán có lời văn.
	Khi các em học xong công thức, quy tắc áp dụng cho từng dạng toán theo mẫu, tiếp đó các em thực hành giải bài toán có dạng tương tự hoặc có biến dạng đôi chút. Thực hành luyện tập giúp các biến kiến thức thành kĩ năng, biến kĩ năng thành kĩ xảo. Nhờ thực hành luyện tập mà các em sẽ giải toán nhanh chóng và thành thạo hơn.
Phương pháp gợi mở vấn đáp
Sử dụng phương pháp này người dạy không trực tiếp đưa ra kiến thức mới, mà dùng một hệ thống câu hỏi gợi mở để hướng dẫn học sinh suy nghĩ và tự trả lời, từng bước tiến tới kết luận cần thiết, tự học sinh tìm ra kiến thức mới.
Sử dụng phương pháp này sẽ làm cho tiết học trở nên sôi nổi, sinh động, gây hứng thú trong học tập. Khi dạy bài mới, thực hành luyện tập, kiểm tra đánh giá, ôn tập củng cố kiến thức,... đều cần sử dụng phương pháp này. Riêng ở dạng Toán giải có lời văn lại càng sử dụng phương pháp này vì hệ thống câu hỏi gợi mở sẽ giúp các em tìm hiểu đề, tìm cách giải, kiểm tra bài toán đã giải.
VD: Khi dạy bài toán 3a (trang 18 SGK)
Một vườn hoa hình chữ nhật có chu vi là 120m. Chiều rộng bằng chiều dài. Tính chiều dài, chiều rộng vườn hoa đó.
Câu hỏi tìm hiểu đề:
- Chu vi hình chữ nhật bằng bao nhiêu? (120m)
- Chiều rộng bằng bao nhiêu chiều dài? ()
- Bài toán hỏi gì? ( chiều dài và chiều rộng) 
	Câu hỏi hướng dẫn tìm cách giải:
	- Bài toán cho biết chu vi hình chữ nhật. Vậy công thức tính chu vi hình chữ nhật như thế nào?
	- Muốn tìm một chiều rộng và một chiều dài ta phải làm sao? (tính nửa chu vi).
?m
	- Chiều rộng bằng bao nhiêu chiều dài? (). Vậy ta có sơ đồ tóm tắt như sau:
nửa chu vi (60m)
?m
	Chiều rộng:	
	Chiều dài:	
	Diễn giải:
	Một chiều dài + một chiều rộng = nửa chu vi = chu vi : 2
	Chiều rộng bằng 5 phần = nửa chu vi : (5+7) x 5
	Chiều dài = nửa chu vi – chiều rộng
	Kiểm tra cách giải: 
	Lấy (chiều rộng + chiều dài) x 2 = 120m 
Phương pháp giảng – minh hoạ
	Có người cho rằng sử dụng phương pháp dạy học mới là không sử dụng phương pháp giảng giải – minh hoạ vì nó dẫn đến học sinh thụ động tiếp thu kiến thức. Nhưng khi dạy về kiến thức mới, hướng dẫn học sinh luyện tập, thực hành người giáo viên phải xen vào giảng giải kết hợp với các phương tiện trực quan. Bởi lẽ có đơn vị tri thức mà cho dù có đầy đủ đồ dùng dạy học, các hệ thống câu hỏi gợi mở nhưng học sinh không tìm ra được, buộc giáo viên phải giải thích.
2. Nắm vững quy trình dạy và học:
	Được tiến hành theo hai mức độ: làm quen và hình thành.
Làm quen với việc giải toán 
	Được tiến hành theo 4 bước:
	+ Tìm hiểu nội dung bài toán.
	+ Tìm cách giải bài toán.
	+ Thực hiện cách giải bài toán.
	+ Kiểm tra cách giải bài toán.
	F Tìm hiểu nội dung bài toán:
	Trước khi hướng dẫn học sinh giải bài toán thì việc làm đầu tiên của học sinh là đọc kỹ đề bài và hiểu đề bài. Để kiểm tra việc đọc và hiểu đề bài, giáo viên nên yêu cầu học sinh nhắc lại nội dung bài, không phải là đọc thuộc lòng mà bằng cách diễn đạt của mình (nếu học sinh nhắc chỗ nào chưa đúng thì giúp các em sửa chữa) tiến tới cách giải. T ... hể suy luận như sau:
	Cần tìm: Ngày thứ ba bán được bao nhiêu kg đường.
	Đã biết: Cả ba ngày bán được 2400kg; ngày đầu bán được 35% số đường; ngày thứ hai bán được 40% số đường. Hai ngày đầu tính bằng tỉ số phần trăm.	
	Phân tích thông qua sàng lọc tổng hợp: Cả ba ngày bán được 2400kg tức là 100% số đường, ngày đầu bán được 35% số đường, ngày thứ hai bán được 40% số đường. Số phần trăm còn lại chính là của ngày thứ ba. Từ đó các em đi đến kế hoạch giải:
	Bước 1:
Tìm số phần trăm bán được của ngày thứ ba (100% - (35% + 40%) = 25%)
	Bước 2:
Tìm số kg đường bán được của ngày thứ ba (2400 : 100 x 25 = 600 kg) 
	Tuỳ theo đề toán mà giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh phân tích, suy luận từ cái cần tìm - ẩn số đi ngược lên cái đã cho – dữ kiện hoặc ngược lại sao cho học sinh dễ hiểu, dễ tìm ra cách giải, sáng tạo ra cách giải nhanh hơn, hợp lý hơn.
	Xác định trình tự giải quyết, thực hiện các phương pháp tính số học để có thể đi từ câu hỏi của bài toán đến số liệu, hoặc từ số liệu đến câu hỏi của bài toán thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở.
	VD: Khi dạy bài toán 3 (trang 167 SGK)
	Một thửa ruộng hình chữ nhật có chiều dài 100m, chiều rộng bằng chiều dài. Bác Năm trồng lúa trên thửa ruộng đó, cứ 100m2 thu được 55kg thóc. Hỏi bác Năm thu hoạch được bao nhiêu ki-lô-gam thóc trên thửa ruộng đó?
Bài toán cho biết gì? (thửa ruộng hình chữ nhật có chiều dài, chiều rộng bằng chiều dài, cứ 100m2 thu được 55kg thóc).
Bài toán yêu cầu gì? (số thóc thu được trên thửa ruộng đó).
Muốn biết số thóc thu hoạch được ta phải làm gì? Tính như thế nào?
 · Thực hiện cách giải bài toán:
 	Hoạt động này bao gồm việc thực hiện các phép tính đã nêu trong kế hoạch giải và trình bày bài giải.
	Khi dạy học sinh giải toán, cần chú ý rằng nếu chỉ luyện tập giải toán qua các bài mẫu thì hiệu quả không lâu dài. Trái lại trong quá trình giải toán, giáo viên cần phải làm sao khêu gợi được học sinh cố gắng tự tìm ra cách giải. Vì vậy không thể coi việc dạy học toán đạt được mục tiêu khi học sinh tìm ra đáp số hay câu trả lời đúng mà việc tìm hiểu xem học sinh đi đến kết quả bằng phương pháp, thủ thuật nào cũng không kém phần quan trọng.
	· Kiểm tra cách giải bài toán:
	Việc này nhằm kiểm tra cách giải đúng hay sai, nếu có sai thì phát hiện ra sai ở chỗ nào để sửa chữa, sau đó nếu thấy kết quả đúng thì ghi đáp số.
	Khi quan sát học sinh giải toán, giáo viên dễ dàng nhận thấy rằng học sinh thường coi việc giải toán xong là khi tìm ra đáp số hay tìm được câu trả lời. Khi được giáo viên hỏi “Em có tin vào kết quả mình làm đúng không? ” thì nhiều em lúng túng. Do đó yêu cầu sư phạm là làm sao gây được và phát huy tinh thần trách nhiệm và lòng tin vào kết quả đạt được. Vì vậy dạy học sinh có thói quen kiểm tra cách giải là yêu cầu không thể thiếu được khi giải toán.
	Các thao tác bao gồm:
	+ Thiết lập tương ứng các phép tính giữa các số tìm được qua quá trình giải với các số đã cho.
	+ Tạo ra bài toán ngược với bài toán đã cho và giải bài toán đó.
	+ Giải bài toán bằng cách khác.
Hoạt động hình thành kỹ năng dạy toán
	Hoạt động này có thể được tiến hành bằng các giải pháp sau:
	+ Giải các bài toán nâng dần mức độ phức tạp trong mối quan hệ số đã cho và số phải tìm, hoặc điều kiện của bài toán.
	+ Giải các bài toán có nhiều cách giải khác nhau.
	+ Tiếp xúc với các bài toán thiếu và thừa các dữ kiện, hoặc điều kiện của bài toán.
	+ Giải các bài toán trong đó phải xét tới nhiều khả năng xảy ra, để chọn đúng khả năng thoả mãn điều kiện của bài toán.
	+ Lập và biến đổi bài toán: Đặt câu hỏi cho bài toán chỉ mới biết số liệu và điều kiện; đặt điều kiện cho bài toán, chọn số hoặc số đo đại lượng cho bài toán còn thiếu số liệu; lập các dạng bài toán tương tự, lập các bài toán ngược lại và các bài toán đã giải; lập các bài toán theo bảng tóm tắt hoặc sơ đồ cho sẵn; lập bài toán theo cách giải cho sẵn.
	Ngoài ra để cho việc dạy giải toán có lời văn ở lớp Năm được tốt hơn nữa người giáo viên cần chuẩn bị tốt trước tiết dạy. Chuẩn bị ở đây là thiết kế bài dạy. Trong thiết kế bài dạy có đủ các bước lên lớp, các câu hỏi được soạn logíc với nội dung bài dạy. Ở lớp Năm cần đặc biệt chú trọng đến phát triển năng lực của học sinh, do đó nội dung bài soạn cần đảm bảo sự lĩnh hội và tri thức phát triển của học sinh... Người giáo viên cần phải luôn đổi mới giáo dục với phương châm: làm cho học sinh biết hơn là làm cho học làm theo, lấy học sinh làm trọng tâm. Kịp thời đưa tri thức mới từ những tiến bộ khoa học vào bài dạy, dành ưu tiên tất cả cho sự nghiệp giảng dạy, trang bị những tư duy có giá trị và khả năng áp dụng phổ biến, đem lại hiệu quả thiết thực. Đa dạng hoá những hình thức giao tiếp sư phạm và quan tâm nhiều đến số lượng những tri thức lĩnh hội thật sự, thông qua những hình thức giảng dạy sinh động. Có như vậy mới nâng cao được năng suất truyền thụ tri thức mới, các em học sinh cần được hướng dẫn cách học hợp lí, khoa học phù hợp với lứa tuổi và hoàn cảnh của từng em. Giáo dục cho các em ý thức được học tập là một nhiệm vụ. Hiểu được nhiệm vụ học tập và biết dùng những hành động học tập để giải quyết nhiệm vụ đó. Khi muốn dạy cho các em điều gì phải tìm cách cho các em tự mình làm (giải quyết nhiệm vụ học tập) để phát hiện đối tượng của hoạt động dạy học...
	Gần gũi quan tâm giúp đỡ những học sinh cá biệt, hoàn cảnh khó khăn, tránh các em có cảm giác bị bỏ rơi; kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh, làm cho họ hiểu và nhận thức đúng đắn và đầy đủ sự cần thiết, quan tâm về việc học hành của con em mình, kết hợp với phụ huynh tìm ra những giải pháp tối ưu để dạy học ở lớp và ở nhà. 
IV – KẾT QUẢ:
	Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện lâu dài đề tài trên, bằng một số giải pháp trong dạy và học Toán có lời ở văn lớp Năm kết quả đến giữa học kì II đạt được như sau:
	- 100% học sinh chú ý, tập trung theo dõi và suy nghĩ tìm cách giải bài toán.
	- 85% học sinh hiểu bài và giải được những bài toán bình thường.
	- Với những bài toán khó, phức tạp có khoảng trên 30% học sinh giải được bài.
Sĩ số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
Đầu năm
20
0
0
6
30
12
60
2
10
GHKI
20
1
5
8
40
10
50
1
5
CHKI
20
3
15
8
40
9
45
0
0
GHKII
20
3
15
9
45
8
40
0
0
	Ngoài ra việc đạt kết quả cao trong việc giải Toán có lời văn các em còn hứng thú, say mê môn Toán và tham gia học tập tích cực ở những môn khác, phát huy tốt năng lực sáng tạo, tích cực tham gia phát biểu, tranh luận làm cho tiết học sôi nổi hơn.
V – KẾT LUẬN:
	Qua thời gian thực hiện và đạt kết quả trên, tôi đã đã rút ra một số bài học kinh nghiệm cho bản thân. Để đạt được hiệu quả cao trong việc giải Toán có lời văn ở lớp Năm người giáo viên cần chú ý những yêu cầu sau:
	- Gần gũi quan tâm đến từng học sinh.
	- Tổ chức cho các em tự học, tự tìm ra tri thức mới mà người giáo viên là người hướng dẫn.
	- Giáo viên phải nắm được các phương pháp đặc trưng của môn toán, tuỳ từng bài mà vận dụng, kết hợp các phương pháp mới vào bài dạy sao cho có tính đơn giản, dễ hiểu, vừa sức, tính tự nhiên logíc với nội dung bài toán.
	- Người giáo viên thường xuyên tự học, tự rèn luyện để nâng cao trình độ, nắm kịp thời những thông tin mới để có hướng truyền thụ cho học sinh.
	- Chuẩn bị đầy đủ trước khi lên lớp (kiến thức, bài soạn, đồ dùng,...) 	
	- Đầu tư nhiều ở môn Toán sẽ giúp các em phát triển tư duy sáng tạo và học tốt ở các môn khác.
	Với sự động viên của Ban giám hiệu và đồng nghiệp tôi sẽ cố gắng hơn để giúp các em học tốt môn Toán và đồng thời ở các môn khác. Để nâng cao chất lượng học tập của học sinh đem lại những tri thức cần thiết nhằm giúp các em thấy được tầm quan trọng của việc học tập. Luôn gần gũi để hiểu rõ tâm lý, tình cảm, sức học của học sinh qua đó tôi tìm ra những biện pháp cụ thể hơn, thiết thực hơn, cho các em dễ dàng nắm bắt.
	Mặc dù đề tài đã được hoàn thành nhưng do thời gian nghiên cứu có hạn nên đề tài chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Rất mong được sự nhiệt tình đóng góp ý kiến của quý thầy cô và đồng nghiệp để đề tài hoàn thiện hơn.
	Người viết
	 Nguyễn Văn Cương
NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SKKN CẤP TRƯỜNG
....................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
Xếp loại:
NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SKKN CẤP HUYỆN
............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................Xếp loại:..	 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn t5.doc