- Môn toán ở tiểu học nhằm giúp cho học sinh:
Có những kiến thức cơ bản về yếu tố hình học và cách hình thành phép nhân chia trong bảng.
- Hình thành các kỹ năng thực hành, tính toán, giải toán có lời văn và các dạng bài toán nhân chia trong bảng và các bài toán có ứng dụng thiết thực trong cuộc sống.
- Góp phần bước đầu phát triển năng lực tư duy, phát triển khả năng suy luận, hợp lý của diễn đạt đúng. Biết cách giải quyết các vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống, kích thích trí tưởng tượng gây hứng thú trong học toán cho học sinh.
- Môn toán tiểu học góp phần bước đầu hình thành phương pháp học toán, làm việc có kế hoạch, khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo cho học sinh
2/ Xuất phát từ chương trình của Bộ GD - ĐT về đổi mới chương trình sách giáo khoa, theo hướng dạy học mới, nhằm góp phần giúp giáo viên và học sinh có một cách dạy và cách học mới. Trong thực tiễn cuộc sống.
- Nếu như các em học sinh, yếu về kỹ năng thực hành2 phép tính nhân, chia không được giúp đỡ, không được quan tâm giúp đỡ thì các em sẻ không có khả năng tối thiểu khi học chương trình toán lớp 3. Như vậy các em sẻ gặp nhiều khó khăn khi giải các bài toán có liên quan đến 2 phép tính nhân, chia.
- Mặt khác nếu các em học sinh yếu không thực hiện được các bài toán về 2 phép tính, không khắc phục được những sai lầm trong phần toán học này, trong khi các em khác lại làm tốt, thì các em sẻ chán nản và bi quan, lực học của các em lại càng yếu.
I - lý do chon đề tài 1/ Xuất phát từ mục tiêu của môn toán ở trường tiểu học: - Môn toán ở tiểu học nhằm giúp cho học sinh: Có những kiến thức cơ bản về yếu tố hình học và cách hình thành phép nhân chia trong bảng. - Hình thành các kỹ năng thực hành, tính toán, giải toán có lời văn và các dạng bài toán nhân chia trong bảng và các bài toán có ứng dụng thiết thực trong cuộc sống. - Góp phần bước đầu phát triển năng lực tư duy, phát triển khả năng suy luận, hợp lý của diễn đạt đúng. Biết cách giải quyết các vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống, kích thích trí tưởng tượng gây hứng thú trong học toán cho học sinh. - Môn toán tiểu học góp phần bước đầu hình thành phương pháp học toán, làm việc có kế hoạch, khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo cho học sinh 2/ Xuất phát từ chương trình của Bộ GD - ĐT về đổi mới chương trình sách giáo khoa, theo hướng dạy học mới, nhằm góp phần giúp giáo viên và học sinh có một cách dạy và cách học mới. Trong thực tiễn cuộc sống. - Nếu như các em học sinh, yếu về kỹ năng thực hành2 phép tính nhân, chia không được giúp đỡ, không được quan tâm giúp đỡ thì các em sẻ không có khả năng tối thiểu khi học chương trình toán lớp 3. Như vậy các em sẻ gặp nhiều khó khăn khi giải các bài toán có liên quan đến 2 phép tính nhân, chia. - Mặt khác nếu các em học sinh yếu không thực hiện được các bài toán về 2 phép tính, không khắc phục được những sai lầm trong phần toán học này, trong khi các em khác lại làm tốt, thì các em sẻ chán nản và bi quan, lực học của các em lại càng yếu. - Xuất phát từ những thuận lợi trong quá trình triển khai thực hiện chương trình và sách giáo khoa tiểu học mới ở địa phương, ở trường sở tại. - Hiện nay trong trường tiểu học chỉ quan tâm đến học sinh giỏi và có nhiều biện pháp để bồi dưỡng học sinh giỏi, còn các em học sinh yếu kém ít được quan tâm hơn, có chăng cũng là chỉ là các buổi phụ đạo ít ỏi, không có tài liệu, chương trình cụ thể, sách tham khảo dành cho những em học sinh yếu kém cũnh không có. Với nhận thức như vậy bản thân tôi thấy vấn đề giúp đỡ học sinh yếu kém là vấn đề cần được quan tâm nhiều hơn, nhằm để nâng cao chất lượng cho học sinh. Nhưng trong khuôn khổ đề tài này tôi chỉ được phép chọn một mảng kiến thức toán học và tôi đã chọn “Vấn đề giúp đỡ học sinh yếu kém. Khắc phục khó khăn khi thực hành 2 phép tính nhân, chia trong bảng cho học sinh lớp 3”. Hy vọng với đề tài này tôi cũng như các đồng nghiệp những ai quan tâm đến vấn đề này sẻ góp phần giúp đỡ học sinh yếu kém học tốt hơn môn toán ở bậc tiểu học. Hiện nay các trường tiểu học đã triển khai và thực hiện chương trình tiểu học năm 2000 và chương trình này được áp dụng thống nhất trong cả nước từ năm học năm học 2002 - 2008. Nên giáo viên đã chủ động nắm bắt được nội dung và phương pháp dạy học mới. Trong các tiết dạy, giáo viên đã thiết kế bài dạy theo đúng tinh thần đổi mới: Lấy học sinh làm nhân vật trung tâm, tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh. Sử dụng phối hợp phương pháp dạy học truyền thống với phương pháp hiện đại và thay đổi hình thức học tập của học sinh nhằm nâng cao vai trò của học sinh trong quá trình học tập. Giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn, giúp học sinh huy động vốn hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân để tự học sinh chiếm lĩnh tri thức mới, vận dụng các tri thức đó vào thực hành và thực tiễn đời sống. b. Về phía học sinh: Qua tìm hiểu tôi nhận thấy: Học sinh rất thích học chương trình toán thực nghiệm năm 2000. Bởi các em là chủ thể nhận thức, chính bản thân các em được chủ động, độc lập suy nghĩ, khám phá để tìm ra kiến thức mới. Các em tiếp cận với bài học và nắm bắt kiến thức rất nhanh. * Khó khăn: Tuy nhiên, do nhiều năm đã dạy chương trình cũ nên một bộ phận giáo viên chưa đầu tư thời gian để nghiên cứu chương trình SGK Toán 3 năm 2000 và chưa nắm bắt được quy trình phương pháp dạy theo sách giáo khoa mới. Giáo viên chưa chủ động thiết kế bài dạy, còn phụ thuộc nhiều vào tài liệu hướng dẫn hoặc nếu có chú ý soạn giảng thì giáo viên mới chỉ tập trung vào việc hình thành kiến thức mới cho học sinh mà chưa đi sâu vào phần thực hành để rèn luyện kỹ năng cho học sinh. Mặt khác nhiều giáo viên lên lớp chưa sử dụng đồ dùng dạy học hoặc sử dụng nhưng mang lại hiệu quả thấp. Giáo viên làm việc còn máy móc, rập khuôn ít có nhu cầu và cơ hội để phát huy khả năng sáng tạo của nghề dạy học. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy học chưa đảm bảo, các lớp còn phải học chung phòng theo 2 ca, đây cũng là một yếu tố không kém phần quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động dạy học của cô và trò. Từ việc dạy học của thầy mà học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động. Các biểu tượng hình hình học giáo viên đưa ra học sinh phải ghi nhớ một cách máy móc. Chính vì học sinh nắm bắt bài học không vững vàng, không sâu, chỉ áp dụng rập khuôn nên các em dễ học trước quên sau. 2. Đối với sách giáo khoa Toán 3 chương trình Tiểu học mới: a. Thuận lợi: Chương trình sách giáo khoa Tiểu học mới nói chung, mạch yếu tố hình học Toán 3 nói riêng có nhiều hình ảnh trực quan đẹp, trình bày rõ ràng. Hệ thống bài tập có nhiều cách thể hiện mới, nhiều bài tập được tổ chức dưới dạng trò chơi phù hợp với khả năng nhận thức và tâm lý lứa tuổi của học sinh Tiểu học. b. Những khó khăn thường gặp trong việc dạy học mạch yếu tố hình học Toán 3: Đối với mạch kiến thức này, chính vì học sinh ghi nhớ các biểu tượng hình hình học một cách máy móc cho nên học sinh còn có sự nhầm lẫn giữa biểu tượng hình này với biểu tượng hình khác. Chẳng hạn, nhiều em còn nhầm lẫn giữa chu vi và diện tích. Các kỹ năng vẽ hình, xếp ghép hình học sinh còn lúng túng và thao tác chậm. Đặc biệt là dạy toán đếm hình học sinh hay đếm sót. Bởi đây là một dạng toán đòi hỏi học sinh phải biết: “Phân tích, tổng hợp” hình. Do vậy, đây là một điểm khó đối với học sinh khi giải loại toán này. Xuất phát từ thực tế đó tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp để dạy tốt mạch yếu tố hình học Toán 3. Nhằm giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, khả năng sáng tạo trong học tập. Chương V Một số giải pháp để dạy tốt mạch yếu tố hình học toán 3 chương trình Tiểu học mới Khi dạy mạch kiến thức này giáo viên cần khai thác tính đặc trưng của việc hình thành và khám phá kiến thức về nội dung yếu tố hình học đối với học sinh lớp 3 là thông qua con đường “Thực nghiệm” bằng quan sát và đo đạc, so sánh, phân tích đơn giản rồi quy nạp, khái quát hoá Trên cơ sở đó giáo viên cần lựa chọn cách dạy học phù hợp, tạo ra những hoạt động học tập của học sinh đảm bảo tính tích cực cho từng đối tượng học sinh của lớp. Cụ thể là: 1. Đối với bài học về khái niệm, biểu tượng hoặc nhận dạng các hình hình học mới có thể tiến hành hoạt động dạy học mà trong đó: Khai thác từ tính trực quan tổng thể đến trực quan cụ thể chi tiết giúp học sinh nắm vững và sâu kiến thức mới. Cho học sinh liên hệ các khái niệm đã học để chuyển sang khái niệm mới (nếu khái niệm đã học có liên quan đến khái niệm mới). Trong mạch yếu tố hình học, nội dung dạy học: “Góc vuông, góc không vuông”, chủ yếu giới thiệu để học sinh biết thế nào là “góc vuông” và góc không vuông” chưa yêu cầu có khái niệm về “góc”. Tuy nhiên, trước khi làm quen với: “Góc vuông, góc không vuông” sách toán 3 có nêu hình ảnh 2 kim đồng hồ tạo thành góc. Điều đó chỉ nhằm giúp học sinh có biểu tượng ban đầu về góc (hình ảnh 2 kim là hình ảnh 2 “cạnh” của góc, hình ảnh điểm chung của 2 kim là hình ảnh “đỉnh” của góc từ đó dẫn ra hình ảnh (biểu tượng) về “Góc vuông, góc không vuông” được “tự nhiên” hơn). Khi dạy về “Góc vuông, góc không vuông” giáo viên cần giới thiệu một cách tổng thể, xem như là một hình hình học có dạng như thế gọi là “góc vuông” hoặc “Góc không vuông”. Giáo viên cần lưu ý góc không vuông thì nói là không vuông không được nói là góc nhọn, góc tù. Giáo viên vẽ góc vuông và cho học sinh biết: Đây là góc vuông, giáo viên chỉ ra đỉnh góc vuông là điểm nào, hai cạnh góc vuông là 2 cạnh nào rồi nêu tên góc vuông. Chẳng hạn: Góc vuông đỉnh O, cạnh OA, OB. Cũng giới tương tự đối với góc không vuông. Việc dùng ê ke để kiểm tra góc nào đó có là góc vuông hay không chỉ được thực hiện sau khi học sinh đã học (đã có biểu tượng) về góc vuông, góc không vuông. Đồng thời yêu cầu tất cả các em phải có êke để học. ở lớp 3 chưa nên cho học sinh tìm hiểu các nội dung khác về góc như ký hiệu đánh dấu góc, miền trong của góc, số đo của góc Những vấn đề đó sẽ được học lên các lớp trên. Thông qua các mô hình cụ thể mà học sinh có thể nhìn, sờ thấy được giúp học sinh nhận biết được “Góc vuông, góc không vuông”. Để vẽ góc vuông giáo viên cần giúp cần học sinh làm từng thao tác, mỗi học sinh đều được thực hành nhận biết, vẽ: * VD: Dùng êke để vẽ góc vuông. Thao tác 1: Cho học sinh dùng thước vẽ một cạnh và xác định một đỉnh (cạnh AB, đỉnh A. Thao tác 2: Hướng học sinh đặt êke sao cho đỉnh êke trùng với đỉnh học sinh đã xác định (A) và một cạnh êke trùng với cạnh học sinh đã vẽ (AB). Thao tác 3: Cho học sinh dùng bút vẽ theo cạnh góc vuông kia của êke (tay trái chẵn thước, tay phải dùng bút vẽ). A B * Nhận dạng hình hình học: ở lớp 1, 2 học sinh đã biết các hình (hình tròn, hình tam giác, hình vuông ) dưới dạng “tổng thể” (Chủ yếu quan sát “toàn thể” hình dạng rồi nêu tên hình. Đến lớp 3 khi dạy khái niệm hình hình học mới (Hình chữ nhật, hình vuông) ngoài việc xét “tổng thể” học sinh đã biết dựa vào các đặc điểm về yếu tố cạnh, góc, đỉnh của hình để nhận dạng, nêu tên hình. Chẳng hạn hình chữ nhật có 4 góc vuông, có 2 cạnh dài bằng nhau, 2 cạnh ngắn bằng nhau, hình vuông có 4 góc vuông và có 4 cạnh bằng nhau. Khi dạy khái niệm hình hình học mới giáo viên cần sử dụng đồ dùng trực quan hoặc liên hệ các đồ vật trong thực tế có hình dạng học để học sinh nhận biết hình. Hướng dẫn học sinh tìm thêm các đồ vật ở nhà mình, trong lớp có dạng hình chữ nhật, hình vuông như quyển sách, bảng lớp, mặt bàn Cần lấy những hình có tính chất “Phản ví dụ” để học sinh nhận biết sâu hơn hình dạng các hình đang học. Chẳng hạn: Khi dạy khái niệm hình chữ nhật, giáo viên có thể cho học sinh quan sát tập hợp gồm nhiều hình rồi yêu cầu các em tô màu cao hình chữ nhật. ã Trong mạch yếu tố hình học ngoài nhận dạng hình chữ nhật, hình vuông học sinh lớp 3 còn được học về khái niệm hình tròn. ở lớp 1, 2 học sinh đã biết được hình tròn qua hình ảnh mặt đồng hồ, cái đĩa, bánh xe h ... 2 điểm A và b rồi kết luận. Sau đó gọi vài học sinh nhắc lại - Vài học sinh nhắc lại kết quả 2.2/ Giới thiệu trung điểm của đoạn thẳng: - Học sinh vẽ đoạn thẳng theo yêu cầu M 3cm 3cm B A - Giáo viên cho học sinh lấy bảng con hoặc giấy pháp thực hiện yêu cầu: Kẻ đoạn thẳng AB và có độ dài 6cm. Vẽ điểm M ở giữa 2 điểm A và B, sao cho AM = 3cm - Học sinh nêu: MB = 3cm AM = MB - Yêu cầu học sinh xác định độ dài đoạn thẳng MB rồi so sánh độ dài AM và độ dài MB - Học sinh nêu: MB = 3cm AM = MB - Giáo viên gợi ý giúp học sinh nhận xét AM = MB (điểm M cách đều 2 điểm A và B) - Giáo viên: Thế nào là trung điểm của đoạn thẳng - M là điểm giữa 2 điểm A và B. Độ dài đoạn thẳng AM bằng độ dài đoạn thẳng và cùng bằng 3cm. M được gọi là trung điểm của đoạn thẳng AB. - Trên cơ sở các thao tác đã làm ở trên, giáo viên hình thành ở học sinh khái niệm trung điểm của đoạn thẳng AB. - Học sinh lắng nghe + M là điểm giữa 2 điểm A và B + AM = MB (độ dài đoạn thẳng AM bằng độ dài đoạn thẳng MB) - GV nêu thêm vài ví dụ khác để củng cố khái niệm trung điểm của đoạn thẳng. 3/ Hoạt động 3: Vận dụng - thực hành. - Bài 1: Gọi học sinh nêu yêu câu bài 1 Yêu cầu học sinh làm cá nhân sau đó đổi chéo để tự kiểm tra kết quả cho nhau. Gọi 1 học sinh lên bảng làm. - Vài học sinh nêu yêu cầu cả lớp làm bài 1, 1 học sinh lên bảng. - Giáo viên quan sát giúp đỡ học sinh yếu kém Phương án đúng a/ 3 điểm thẳng hàng là: A, M, B; M, O, N; C, N, D b/ M là điểm giữa 2 điểm A và B N là điểm giữa 2 điểm C và D 0 là điểm giữa 2 điểm M và N - Học sinh nêu nhận xét bài làm ở bảng - Giáo viên đánh giá, nhận xét bài 1 + Bài 2, 3: Giáo viên phát phiếu học tập cho cá nhân. Cho 2 học sinh làn lượt nêu yêu cầu từng bài. - Học sinh nhận phiếu. Vài học sinh nêu yêu cầu bài 2 và 3. - Giáo viên hướng dẫn chung cả lớp rồi yêu cầu hoàn thành bài tập vào phiếu. - Học sinh làm bài vào phiếu Hết thời gian làm việc giáo viên thu phiếu học tập để chấm và chữa - Học sinh nạp bài để chấm. Sau đó tự chữa bài (nếu sai) Phương án đúng. + Bài 2: a, 0 là trung điểm của đoạn thẳng AB (Đ) b/ M là trung điểm của đoạn thẳng CD (S) c/ H là trung điểm của đoạn thẳng EG (S) d/ M là trung điểm giữa 2 điểm C và D (S) e/ H là điểm ở giữa 2 điểm E và G (Đ) + Bài 3: K là trung điểm của GE I là trung điểm của đoạn thẳng BC 0 là trung điểm của đoạn thẳng AD 0 là trung điểm của đoạn thẳng IK 4/ Hoạt động 4: Củng cố dặn dò ? Thế nào là điểm ở giữa, trung điểm của đoạn thẳng? Nhận xét tiết học. - 1 - 2 học sinh nêu - Học sinh lắng nghe Họ và tên:.. Lớp: Phiếu bài tập Bài: Điểm ở giữa, trung điểm của đoạn thẳng Bài 3: Câu nào đúng, câu nào sai 2cm G E 3cm 2cm 2cm 2cm 0 B A a/ 0 là trung điểm của đoạn thẳng AB b/ M là trung điểm của đoạn thẳng CD c/ H là trung điểm của đoạn thẳng EG 2cm d/ M là điểm ở giữa 2 điểm C và D M D C e/ H là điểm ở giữa 2 điểm E và G H Bài 3: Nên tên trung điểm của các đoạn thẳng BC, GE, AD, IK E K G 0 D A C I B Họ và tên:.. Lớp: Phiếu kiểm tra Bài: Chu vi hình chữ nhật Bài 1: Tính chu vi hình chữ nhật ABCD có kích thước như hình vẽ D C B A 6cm 4cm Bài 2: Một thửa ruộng hình chữ nhật có chiều dài 120m, chiều rộng 50m. Tính chu vi thửa ruộng đó. Bài 3: Tính chu vi hình chữ nhật có chiều dài 4dm, chiều rộng 25cm. * Biểu kiểm tra : Bài 1: 3 điểm Bài 2: 3 điểm Bài 3: 4 điểm Họ và tên: Lớp: Phiếu kiểm tra Bài: Điểm ở giữa, trung điểm của đoạn thẳng Bài 1: Viết tên các điẻm vào chỗ chấm. P N Q A C D N 0 B M a/ Trong hình bên có: A - Ba điểm.... thẳng hàng - Ba điểm.... thẳng hàng - Ba điểm.... thẳng hàng - Ba điểm.... thẳng hàng b/ M là điểm giữa 2 điểm .........và ........ N là điểm giữa 2 điểm .........và ........ 0 là điểm giữa 2 điểm .........và ........ B M Bài 2: Nêu tên trung điểm của đoạn thẳng: AB, BC, CD, AD. C D * Biểu điểm: Bài 1 (7 điểm) Bài 2: (3 điểm) IV - kết quả thực nghiệm: Sau khi đã tiến hành thực nghiệm 2 tiết, tôi nhận thấy học sinh tích cực, chủ động, hăng hái xây dựng bài. Sau mỗi tiết dạy thực nghiệm học sinh được đánh giá qua phiếu kiểm tra cho mỗi tiết và thu được kết quả như sau: Lớp Số học sinh Giỏi Khá Trung bình Yếu SL TL SL TL SL TL SL TL 3A 25 8 32% 10 40% 7 28% 0 3B 27 7 25.93% 12 44,45 8 29,62% D - kết luận: Như vậy, đề tài đã đưa ra một số giải pháp để dạy tốt mạch yếu tố hình học sách giáo khoa Toán 3 chương trình tiểu học mới. Trong giai đoạn đổi mưới như hiện nay, nhiệm vụ của giáo dục đòi hỏi ngày càng cào để đáp ứng công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đòi hỏi người giáo viên phải thực sự chuyển đổi cách nghĩ, cách làm, phải đi sâu tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy học mới. Để từ đó tìm ra giải pháp tích cực giúp học sinh tự chiếm lĩnh tri thức và hoạt động sáng tạo. Để dạy tốt mạch yếu tố hình học Toán 3. Giáo viên cần nắm được: - Dạy các yếu tố hình học Toán 3 là dạy khái niệm, biểu tượng hình hình học cho nên sau khi hình thành khái niệm, biểu tượng mới giáo viên phải cho học sinh luyện tập thực hành với các dạng bài tập (vẽ hình, nhận dạng hình, xếp ghép hình, đếm hình) nhằm củng cố, khắc sâu kiến thức cho học sinh. Mặt khác, cần cho học sinh tự liên hệ biểu tượng, khái niệm hình hình học với thực tiễn đời sống. - Nội dung dạy học gắn liền với phương pháp dạy học. Giáo viên cần nghiên cứu kỹ sách giáo khoa, các tài liệu tham khảo để tìm ra phương pháp dạy học mới. Giáo viên cần mạnh dạn đưa ra các phương pháp dạy học toán mới trên cơ sở phát huy mặt tích cực của dạy học truyền thống để nâng cao chatá lượng dạy học và hiệu quả đào tạo. - Cần sử dụng tốt các đồ dùng học tập, bảng con, vở bài tập, phiếu giao việc. Bởi vì, tư duy học sinh tiểu học là tư duy cụ thể chiếm ưu thế nhằm giúp học sinh có cơ hội hoạt động và tự bộc lộ mình. - Đối với mỗi dạng bài tập (vẽ hình, nhận dạng hình, xếp ghép hình) Giáo viên cần để các em được tự do hoạt động, không nên làm thay hoặc hướng dẫn quá kỹ. Nếu học sinh lúng túng thì giáo viên chỉ gợi ý chung. Những giải pháp nói trên hoàn toàn có tính khảthi khi dạy học các yếu tố hình học Toán 3. Tuy nhiên để đảm bảo cho việc ứng dụng một cách rộng rãi và thực sự nâng cao chất lượng dạy học tôi xin đề xuất một vài ý kiến như sau: - Cần tổ chức các buổi hội thảo ở trường, liên trường để trao đổi kinh nghiệm nhằm bồi dưỡng và nâng cao năng lực chuyên môn cho giáo viên. - Một vấn đề cũng quan trọng và quyết định đến chất lượng dạy học đó là cơ sở vật chất. Nhà nước cần quan tâm, hỗ trợ tạo điều kiện những trường còn khó khăn về cơ sở vật chất để đảm bảo cho việc dạy học đạt hiệu quả cao. Trên đây, là một số ý kiến nhỏ nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học yếu tố hình học nói riêng, toán 3 nói chung. Thực hiện đề tài này, tôi đã bước đầu tập dượt nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, do thời gian không nhiều, trình độ nghiên cứu lý luận còn hạn chế và không thể không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý, sự giúp đỡ chân thành của các thầy giáo, cô giáo cùng các bạn đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn. E - tài liệu tham khảo: Trong quá trình thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng một só tài liệu sau: 1/ Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy sách giáo khoa Toán 3 chương trình Tiểu học mới. Nhà xuất bản giáo dục năm 2004. 2/ Sách giáo khoa, sách giáo viên, vở bài tập Toán 3. 3/ Một số vấn đề cơ bản của chương trình Tiểu học mới. Nhà xuất bản giáo dục năm 2004. 4/ Hỏi đáp về dạy học Toán 3. Nhà xuất bản giáo dục năm 2005 5/ Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học. Nhà xuất bản giáo dục năm 1999 6/ Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học. Nhà xuất bản giáo dục năm 1999. Tác giả Phạm Đình Thực. mục lục A - Phần mở đầu 1 I - Lý do chọn đề tài 1 II - Mục đích nghiên cứu đề tài 3 III - Nhiệm vụ nghiên cứu 3 IV- Đối tượng phạm vi nghiên cứu 4 V - Phương pháp nghiên cứu 4 B - Phần nội dung 4 Chương I: Tìm hiểu cấu trúc sách giáo khoa Toán 3 chương trình Tiểu học mới 4 I - Mục tiêu của chương trình môn Toán Tiểu học mới 4 II - Nội hiểu cấu trúc sách giáo khoa chương trình Tiểu học mới 6 III - Nội dung chương trình Toán 3 Tiểu học mới 7 IV - Trình độ chuẩn tối thiểu học sinh phải đạt được sau khi học xong Toán 3 9 Chương II: So sánh nội dung chương trình Toán 3 Tiểu học mới với chương trình Toán 3 cải cách giáo dục 12 Chương III: Tìm hiểu phương pháp dạy học mạch yếu tố hình học Toán 3 chương trình tiểu học mới 14 Chương IV Những thuận lợi và khó khăn trong việc dạy học mạch yếu tố hình học Toán 3 16 Chương V: Một số giải pháp để dạy tốt mạch yếu tố hình học Toán 3 chương trình Tiểu học mới 18 C - Phần thực nghiệm 30 I - Mục đích thực nghiệm 30 II - Nội dung thực nghiệm 30 III - Phương pháp thực nghiệm 30 IV - Thời gian địa điểm tiến hành thực nghiệm 30 V - Nội dung bài soạn thực nghiệm 30 Kế hoạch bài dạy 1 31 Kế hoạch bài soạn 2 36 VI - Kết quả thực nghiệm 43 D - Kết luận 44 E - Tài liệu tham khảo 46 Lời cảm ơn Trước hết em xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới thầy giáo, cô giáo khoa giáo dục tiểu học Trường đại học sư phạm Hà Nội. Các thầy cô đã không quản đường xa, trở ngại mang nguồn trí thức quý báu của mình truyền thụ cho thế hệ chúng em, giúp em lớn lên rất nhiều trong cuộc sống, nhất là trong quãng đời dạy học. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn PGS -TS Trần Diên Hiển - Chủ nhiệm khoa giáo dục Tiểu học đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình để em hoàn thành đề tài này. Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới tập thể cán bộ, giáo viên cùng tập thể học sinh lớp 3A, lớp 3B Trường tiểu học Nghĩa Minh - Huyện Nghĩa Đàn - Tỉnh Nghệ An đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Do thời gian không nhiều, trình độ còn hạn chế, mặc dầu Em đã rất cố gắng song đề tài không thể không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự cảm thông và những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy giáo, cô giáo cùng các bạn đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Nghệ An, tháng 01 năm 2006 người thực hiện Cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam độc lập – tự do – hạnh phúc ******* & ******* Kinh nghiệm Kế toán tiền lương và các khoản theo lương Người thực hiện: Trần Thị Hà Đơn vị: Trường tiểu học Long sơn 2 Huyện Anh sơn – Tỉnh Nghệ An. NĂM HọC: 2007- 2008
Tài liệu đính kèm: