Mĩ thuật là môn học thuộc lĩnh vực năng khiếu mà tất cả học sinh không phải em nào cũng có năng khiếu về môn Mĩ thuật. Như chúng ta đã biết dạy Mĩ thuật không nhằm đào tạo các em trở thành hoạ sĩ, mà nhằm Giáo Dục Thẩm Mĩ cho các em là chủ yếu, tạo điều kiện cho các em tiếp xúc, làm quen và thưởng thức cái đẹp, tập tạo ra cái đẹp và biết vận dung cái đẹp vào sinh hoạt học tập hàng ngày và những công việc cụ thể mai sau.
Học môn mĩ thuật ở Tiểu học giúp trẻ nâng cao năng lực quan sát, tư duy hình tượng và tính sáng tạo. Giúp các em có phương pháp làm việc khoa học,nhằm hình thành ở trẻ em phẩm chất tốt đẹp ở con người lao động mới đáp ứng được đòi hỏi của một xã hội phát triển ngày càng cao.
Minh hoạ trực quan là một phương pháp giúp học sinh được thấy tận mắt cách làm việc, cách phác hoạ, cách vẽ để các em định hướng được bài vẽ của mình.
Minh hoạ trực quan còn giúp các em làm việc có định hướng, gợi mở thông qua suy nghỉ và óc sáng tạo của mình.
Giáo viên dần dần hướng các em vào bài học một cách hoàn thiện hơn.
Để đáp ứng và thực hiện tốt mục tiêu nói trên, bản thân Tôi là một giáo viên giảng dạy bộ môn Mĩ Thuật ở nhà trường phổ thông Tôi luôn tìm hiểu những khó khăn, thuận lợi trong việc học mĩ thuật của các em nhằm tìm ra những phương pháp tốt nhất để giúp các em học tập tốt hơn đối với bộ môn năng khiếu này.
ĐỀ TÀI HƯỚNG DẪN HỌC SINH VẼ TRANH Sơ yếu lý lịch Họ và tên : Lê Ngọc Tân Năm sinh : 1985 Nơi sinh : Phường 8 Thị xã Bạc Liêu Trình độ chuyên môn : Trung học sư phạm họa Đơn vị công tác : Trường T.H Gành Hào “B” I. ĐẶT VẤN ĐỀ Mĩ thuật là môn học thuộc lĩnh vực năng khiếu mà tất cả học sinh không phải em nào cũng có năng khiếu về môn Mĩ thuật. Như chúng ta đã biết dạy Mĩ thuật không nhằm đào tạo các em trở thành hoạ sĩ, mà nhằm Giáo Dục Thẩm Mĩ cho các em là chủ yếu, tạo điều kiện cho các em tiếp xúc, làm quen và thưởng thức cái đẹp, tập tạo ra cái đẹp và biết vận dung cái đẹp vào sinh hoạt học tập hàng ngày và những công việc cụ thể mai sau. Học môn mĩ thuật ở Tiểu học giúp trẻ nâng cao năng lực quan sát, tư duy hình tượng và tính sáng tạo. Giúp các em có phương pháp làm việc khoa học,nhằm hình thành ở trẻ em phẩm chất tốt đẹp ở con người lao động mới đáp ứng được đòi hỏi của một xã hội phát triển ngày càng cao. Minh hoạ trực quan là một phương pháp giúp học sinh được thấy tận mắt cách làm việc, cách phác hoạ, cách vẽ để các em định hướng được bài vẽ của mình. Minh hoạ trực quan còn giúp các em làm việc có định hướng, gợi mở thông qua suy nghỉ và óc sáng tạo của mình. Giáo viên dần dần hướng các em vào bài học một cách hoàn thiện hơn. Để đáp ứng và thực hiện tốt mục tiêu nói trên, bản thân Tôi là một giáo viên giảng dạy bộ môn Mĩ Thuật ở nhà trường phổ thông Tôi luôn tìm hiểu những khó khăn, thuận lợi trong việc học mĩ thuật của các em nhằm tìm ra những phương pháp tốt nhất để giúp các em học tập tốt hơn đối với bộ môn năng khiếu này. 1. Lí do chọn đề tài: Môn Mĩ thuật trong Trường tiểu học nhằm hình thành những yếu tố cơ bản ban đầu của giáo dục thẩm mĩ, tạo cơ sở tiền đề cho học sinh học tiếp ở các cấp học sau và ước mơ cao hơn trong chuyên ngành mĩ thuật. Qua thực tiễn giảng dạy bộ môn Mĩ thuật ở tôi nhận thấy rằng: Đa phần các em rất thích môn vẽ, nhưng các em có năng khiếu và yêu thích thật sự thì chưa nhiều, học sinh không yêu thích thì việc tập trung khai thác nội dung, thực hành làm bài tập...rất qua loa, hời hợt, nếu có làm thì mang tính đối phó, vì tinh thần chưa tự nguyện dẫn đến hiệu quả môn học chưa cao: bài vẽ sơ sài, cẩu thả. Một bộ phận các em chưa có kĩ năng thực hành vẽ, nét vẽ khô cứng, rụt rè...dẫn đến thiếu tự tin, chán nản. Trước diễn cảnh đó tôi đã băn khoăn, suy nghĩ, làm thế nào để các em hứng thú, yêu thích môn học mà mình phụ trách, đồng thời giúp các em có được kĩ năng thực hành vẽ để nâng dần chất lượng giảng dạy góp phần thành công kế hoạch năm học . Đó là lí do tôi chọn và thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này. a. Cơ sở lí luận: Môn mĩ thuật là môn năng khiếu, các nhà chuyên nghiệp cho biết rằng: Muốn học tốt môn mĩ thuật thì người học phải yêu thích và đam mê. Trong tất cả các bộ môn nghệ thuật nói chung cũng như môn mĩ thuật nói riếng, với tinh thần sảng khoái, yêu thích, đam mê cùng với sự nỗ lực, cố gắng, thường xuyên rèn luyện thì nhất định với một người dù còn xa lạ với nghệ thuật vẫn vươn lên đạt được mục tiêu mà mình vươn đến. Có không ít các nghệ nhân trở nên thành công bằng từ con đường vươn đến như vậy. Theo tinh thần “Học đi đôi với hành”. Đành rằng mĩ thuật trong trường Tiểu học không nhằm đào tạo các em thành họa sĩ, nhưng muốn có kết quả tốt thì học sinh phải kiên trì, tự nguyện làm đều bài tập, phải có tinh thần học tập tốt, tích cực rèn luyện...nhất định điều đó sẽ giúp các em vươn lên trong học tập. b.Cơ sở thực tiễn: Năm học 2011-2012 bản thân tôi được phụ trách dạy môn Mĩ thuật tại trường, quan sát tinh thần học tập và kĩ năng của học sinh tôi nhận thấy có nhiều em chưa yêu thích môn học thật sự, mà cảm hứng bước đầu năm học mang tính nhất thời và hiếu động, nhiều bài với nét vẽ còn cứng nhắc, khô khan, hình vẽ lí nhí, ngoằn ngoèo, vô cảm...thấy rõ nét hơn nữa là phần đánh giá sản phẩm, các em cứ ấp a, ấp úng, có khi chỉ nói được một câu: "Bức tranh đó xấu !” Qua tìm hiểu thực trạng trên có nhiều nguyên nhân khách quan có, chủ quan cũng có. Có thể do đặc điểm bộ môn đậm nét suy tư, thiếu sôi động, lại cần tính kiên nhẫn nên số học sinh lười không yêu thích. Do chương trình được cấu trúc theo kiểu đồng tâm, kiến thức và qui trình học được lặp lại nhiều lần dễ gây nhàm chán với học sinh. Cũng có thể do phụ huynh đã định hướng cho con em mình chạy theo các môn học chính (các em học sinh lớp 4-5) nên trong giờ học thì hững hờ thiếu tích cực, phần bài tập thực hành thì mang tính đối phó. Thực tiễn trong nhiều năm qua, vai trò của bộ môn Mĩ thuật chưa thực sự được quan tâm như các môn học khác, còn xem nhẹ. Mặt khác do sự phát triển của các loại hình giải trí hiện đại như phim ảnh, di động, game... đã có chỗ đứng trong tâm hồn của học sinh cá biệt. Nhưng phải thừa nhận rằng một số ít học sinh do thể chất, khí chất, môi trường sống đã tạo cho các em có trạng thái thụ động, hững hờ, nên trong giờ học khó hòa đồng và vô cảm trước cái hay, cái đẹp đang diễn ra...tất cả đã làm cho nhiều học sinh thiếu tích cực và chưa yêu thích thật sự môn Mĩ thuật. 2. Phạm vi đề tài Bản thân vận dụng vào thực tiễn đối tượng nghiên cứu là học sinh của mình đang giảng dạy - các lớp từ lớp 1 đến lớp 5- Trường tiểu học Gành Hào B. II.THỰC TRẠNG. Thuận lợi Đối với giáo viên Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng, nhà nước và của ngành. Đội ngũ giáo viên giảng dạy môn Mĩ thuật dược đào tạo chuẩn hóa hơn về chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng nhu cầu tốt hơn trong giảng dạy Mĩ thuật. Ban giám hiệu luôn quan tâm tạo điều kiện tốt hơn để giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng dạy của mình. Cơ sở vật chất được trang bị tương đối đầy đủ để phục vụ tốt hơn cho môn học. Đối với học sinh Giao thông đi lại ngày càng thuận lợi cho học sinh tới trường Gia đình phụ huynh thường xuyên quan tâm đến việc học tập của con em mình. Đa số các em dù có năng khiếu hay không có năng khiếu thì đều yêu mến môn Mĩ thuật. Khó khăn Đối với giáo viên Nội dung bài dài so với thời lượng của một tiết học, dặc biệt là dối với các bài vẽ tranh. Cơ sở vật chất còn thiếu thốn như chưa có phòng vẽ tranh riêng, tranh ảnh cho các bài vẽ thao mãu còn quá ít. Tài liệu tham khảo cho việc giàng dạy môn Mĩ thuật còn ít. Đối với học sinh Đôi lúc trẻ em còn chưa có ý thức đúng đắn về quan sát, nhận xét đối tượng. Do đó trẻ em tìm hiểu về vẻ đẹp của đối tượng chư đấy đủ. Nhiều phụ huynh chưa thật quan tâm đến môn học nên còn chưa chuẩn bị tốt dụng cụ phục vụ cho môn học làm ảnh hưởng rất nhều đến việc học tập. Một số em chưa tích cực, chủ động sáng tạo trong bài thực hành vẽ của mình( Các em thích sao chép hơn). Một số em thường rập khuôn, sao chép theo mẫu. Một số em chưa chú ý sưu tầm tài liệu phục vụ học tập, chưa có thói quen quan sát thiên nhiên, danh lam thắng cảnh Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng nhận thức thẩm mĩ của các em. iII. CÁC GIẢI PHÁP Trước tình hình trên bản thân tôi cố gắng tìm nhiều biện pháp để lay chuyển vấn đề, làm thế nào để tiết học môn mĩ thuật có vị trí trong tâm hồn học sinh, rèn cho các em có được các kĩ năng cơ bản trong thực hành học môn mĩ thuật. Mĩ thuật là môn học trực quan. Đối tượng của Mĩ thuật là những gì ta có thể nhìn thấy, sờ được, có hình, có khối, có độ đậm nhạt, có màu sắc ở xung quanh ta, gần gũi và quen thuộc. Vì vậy việc chuẩn bị tranh cho học sinh quan sát, khai thác tranh là rất cần thiết,. Vì vậy tôi thường tiến hành theo các bước sau: 1. Chuẩn bị tranh.: Theo sư phạm mĩ thuật thì đồ dùng trực quan góp phần từ 30 – 35% thành công tiết dạy. Học sinh được nghiên cứu, rút kinh nghiệm, lĩnh hội kiến thức ở đồ dùng dạy học (tất nhiên giáo viên là người tổ chức, gợi ý định hướng). Ngoài các tranh ảnh, vật thật... phục vụ khai thác nội dung bài học, thì còn chuẩn bị thêm các đồ dùng khác. Riêng môn Mĩ thuật thì tất cả các loại bài học đều phải sử dụng đồ dùng dạy học bao gốm: Những gì có thực như các đồ vật, hoa, quả, cỏ cây nhà cửa... tranh ảnh, hình vẽ của học sinh năm học trước liên quan đến bài học. Theo tôi, nếu chuẩn bị đầy đủ nội dung theo hoạt động thì chưa tạo được hứng thú cao, mà số tranh chuẩn bị nên có sự mâu thuẩn giữa bút pháp vẽ (nét mạnh mẽ > < xấu). Sau khi cho học sinh quan sát tranh để hiểu được đối tượng về hình dáng chung, về cấu trúc, về độ đậm nhạt, màu sắc và tỉ lệ của tranh Sau khi hướng dẫn cho các em quan sát tranh xong tôi đặt câu hỏi cho vài em trả lời. + Tranh nào giống phong cách của em? Có em trả lời: “Nét vẽ mạnh mẽ”, em thì “chu đáo, sạch sẽ”, còn “cẩu thả” thì không em nào chịu - từ đó dần dần chính các em tự khắc phục tính cẩu thả, qua loa... Làm như vậy để giúp các em thu thập được nhiều thông tin, biết quan sát từ bao quát đến chi tiết, hiểu về bố cục, hình mảng, nét vẽ, màu sắc, độ đậm nhạt. 2. Thị phạm thao tác: Đủ đồ dùng dạy học trực quan đẹp, khoa học vẫn chưa đủ. Theo sư phạm mĩ thuật thì phương pháp thị phạm ít được sử dụng thường xuyên trên bảng lớp vì mất thời gian. Vì thế tôi phải rèn luyện rất nhiều theo yêu cầu bài dạy. Thường tôi thị phạm ở hoạt động hướng dẫn cách vẽ ở bảng, hoặc học sinh thực hành (ở giấy nháp), vừa vẽ vừa hướng dẫn các em về cách cầm bút, mạnh bạo phát nét liền mạch... Ví dụ: Những bài vẽ theo mẫu: Phần vẽ khung hình tôi phác 4 đường chì thì ra một khung hình, thao tác nhanh gọn, dứt khóat, nét vẽ phóng khoáng mạnh bạo đúng khung hình lọ và quả (khung hình không cần thẳng như kẻ thước). Tôi thấy học sinh hăng hái phác chì mạnh, nhưng rất ít em làm tốt vì chưa quen- điều này cần thời gian thực hành nhiều. Ở bài vẽ tranh, những dáng hoạt động phức tạp của con người học sinh không được nhờ thầy vẽ hộ, mà sư phạm mĩ thuật thì không cho phép giáo viên vẽ dùm toàn dáng. Để thựchiện những tình huống này đòi hỏi giáo viên phải cứng về hình. Thường tôi vẽ những nét sườn cơ bản 50-60% của dáng, khúc chiết theo hoạt động của nhân vật. Thực hiện 1 lần nhanh, lần sau chậm cho học sinh xem. Tôi thấy học sinh cuốn hút để quan sát thao tác, khi thực hiện bài của mình các em bạo tay tích cực hơn.Tôi thấy học sinh thích thú tìm ra những nét còn lại để hoàn chỉnh hình. 3. Hướng dẫn thực hành thao tác vẽ: Thường thì các em còn ngượng ngợ rất nhiều với các nét vẽ, luôn rụt rè, sợ sệt... Cần phải tạo cho các em sự phóng thoáng trong nét vẽ. Đối với các em lớp nhỏ (1-2) thường xuyên tăng cường cho các em thực hành vẽ trên bảng bằng các nét thẳng, nét cong, gấp khúc...nét vẽ tự do, mạnh bạo nhiều lần như vậy các em sẽ tự tin vẽ nét (điều này đã có đề cập qua ở phần trên). Với tư thế cầm bút, giáo viên cần chú ý rèn giúp cho các em: phần lớn các em đều cầm bút ngắn và tỳ bàn tay lên vở - điều này hạn chế nhiều đến nét vẽ phóng thoáng, bởi vậy giáo viên thường xuyên rèn cho các em kĩ năng cầm bút dài, không tỳ cả bàn tay lên vở ( hoặc bàn) để tạo nét vẽ mạnh mẽ, nhanh nhẹn được- Đây là quá trình thực hành khá dài và khó khăn, vì vậy giáo viên phải thường xuyên nhắc nhở và vận dụng cho các em thực hành qua từng tiết học, thì mới tạo cho các em kĩ năng thao tác tốt được. Khoảng 85 – 90% tiết học mĩ thuật có thực hành vẽ, thời gian thực hành dịch chuyển từ 15 – 22 phút. Khi chuẩn bị tôi luôn chuẩn bị tranh tệ, tranh khá, tranh thật tốt, đến giờ thực hành giáo viên uốn nắn theo dõi học sinh: Gặp học sinh có năng khiếu mà ngưng vẽ sớm hơn thời gian, do đã thỏa mãn, trường hợp này tôi không bắt buộc vẽ nữa mà cho xem tranh thật tốt và gợi ý: + Bài của em cũng được, nhưng thầy thấy còn thiếu cái gì đó? - bài này vẽ hoàn thành tốt nè, em thấy hoàn chỉnh không? Đến học sinh yếu, mà lại ẩu, qua loa tôi cho xem tranh tệ và khá: + Bài nào vẽ kĩ, sạch sẽ + Bài nào tệ. Em thích bài nào? Được kích thích kịp thời tôi thấy học sinh có năng khiếu thì cố gắng thêm vẽ tiếp theo qui luật lây lan, em yếu thì cố gắng vươn lên theo. 4. Liên hệ để phân tích gợi ý: Các loại hình nghệ thuật như: Điện ảnh, sân khấu, âm nhạc, mĩ thuật, cắm hoa...có những điểm nghệ thuật tương đồng chỉ khác nhau về ngôn ngữ nghệ thuật. Tâm lý sư phạm Mĩ thuật cần trạng thái học sinh thoải mái, hứng thú và yêu thích.Trong giảng dạy tôi hay liên hệ môn nghệ thuật khác để giới thiệu, phân tích, chứng minh, gợi ý liên tưởng. Nếu hướng dẫn theo bài bản chung: Bố cục tranh có mảng chính, mảng phụ, mảng chính là trọng tâm (rồi cho học sinh xem tranh thì vẫn còn trừu tượng, chưa kích thích được học sinh, tôi liên hệ lĩnh vực điện ảnh: Trong phim Tây Du Ký có nhiều nhóm nhân vật: Nhóm 7 con yêu nhện, nhóm khỉ ở Hoa Quả Sơn Trong đó nhóm thầy trò Đường Tăng là nhóm chính. + Liên hệ sân khấu ca nhạc: Khi ca sĩ hát có vũ đoàn phía sau. Vậy ai là chính? Đâu là phụ? (Ca sĩ là chính, vũ đoàn là phụ cho ca sĩ). Qua liên hệ chứng minh tôi thấy học sinh rất vui hăng hái tích cực, đồng thời hiểu được mảng chính là trọng tâm, mảng phụ hỗ trợ mảng chính. Ví dụ: Khâu vẽ màu làm nổi bật mảng chính: Thực tế học sinh yếu, trung bình không quán xuyến được màu, có mảng chính màu mờ nhạt, qua loa, mảng phụ thì nổi bật rực rở. Tôi lại liên hệ Tây Du Ký để gợi ý cho học sinh. + Bài của em yêu quái nổi bật hơn Ngộ Không. Tôi thấy em đó vừa cười vừa điều chỉnh lại màu. + Vũ đoàn múa và ca sĩ ai là chính? ( ca sĩ ) + Vậy ca sĩ trang điểm ăn mặc lu mờ hơn vũ đoàn múa có được không ? ( Không: Ca sĩ phải làm nổi hơn vũ đoàn). Ví dụ: Khâu vẽ hình: Trong các bài thực hành Mĩ thuật có thể nói phần vẽ hình người đang họat động là khó nhất đối với học sinh. Ở học sinh yếu quẹt sơ sài rồi vẽ hình cây, hình nhà (mảng phụ). Để động viên phân tích: “ Cái hay của diễn viên là diễn thành công nhân vật trong phim, tính cách của Tôn Ngộ Không, tính cách nhà sư Đường Tăng thế nào thì diễn viên phải nghiên cứu để diễn. Còn chúng ta là mĩ thuật phải hình dung đúng nhân vật thế nào để vẽ cho đẹp”. Qua phân tích tôi thấy học sinh yếu vẽ lại hình bỏ dở, em khá thì suy tư tìm dáng. - Theo bài bản thì hình của mảng chính ( hay họa tiết chính) phải to hơn mảng phụ. Thế nhưng học sinh cũng thường quên, vẽ mảng chính nhỏ bé, hình ở mạng phụ thì to lớn, tôi gợi ý: “Nếu đạo diễn chọn diễn viên đóng vai Sơn Tinh và lính hầu thì chọn diễn viên nào to lớn hơn? (Vai Sơn Tinh ) vì sao? ( Sơn Tinh là người hùng, là vai chính). III. KẾT QUẢ Tuy trong điều kiện thời gian thực nghiệm còn chưa nhiều, song qua quá trình dạy học, nghiên cứu và vận dụng các biện pháp trên, bản thân tôi đã thấy được sự thay đổi rõ ràng trong thái độ, động cơ học tập của học sinh (với hầu như 100% học sinh đều rất ham thích học môn Mĩ thuật). Về kĩ năng thực hành của đa số các em học sinh đều được cải thiện về thái độ tình cảm, phong cách cũng như kĩ thuật vẽ, nét vẽ được phóng khoáng, tự tin, thao tác có phần nhanh hơn nhiều. Đa số các em thực hành bài vẽ đạt kết quả cao. Các em tập trung vào tiết học, các em được nhìn thấy cụ thể những gì các em còn mơ hồ. Các em nắm bắt chắc hơn về cách vẽ, cách thể hiện đề tài. Gây hứng thú trong môn học và tạo cho các em niềm hứng khởi để học tốt các môn học khác. Kết quả học tập môn Mĩ thuật của học sinh ở tất cả các lớp tại trường mình đang dạy đều được nâng lên rõ rệt, đến thời điểm hiện tại (giữa kì 2- năm học 2011-2012) tỉ lệ học sinh khá, giỏi đã nâng lên trên 50%, trong đó có nhiều em thể hiện khá rõ nét về năng khiếu riêng của mình (gần 10% đạt loại A+), 100% học sinh đều đạt loại A. IV. KẾT LUẬN CHUNG 1. Tóm lược giải pháp Lịch sử mĩ thuật cho thấy: Nhiều danh họa nổi tiếng khởi đầu từ đam mê nghệ thuật. Việc tạo hứng thú để học sinh yêu thích môn học mĩ thuật là cần thiết, là tạo ra tinh thần học tập tích cực, nghiêm túc. Học sinh yêu thích môn mĩ thuật là cơ sở tiền đề cho chất lượng, kết quả học tập trong nhà trường , là thắp sáng cho trẻ những ước mơ trở thành họa sĩ, kiến trúc sư, thiết kế thời trang...trong ngày mai. Qua thực tế giảng dạy, tôi luôn xác định được mục tiêu trong nhà trường Tiểu học, đồng thời cũng hiểu sâu sắc được vai trò của môn Mĩ thuật trong việc giáo dục học sinh, phát hiện ra những mặt hạn chế và có giải pháp nâng cao hiệu quả của việc dạy và học môn Mĩ thuật. Tôi thấy việc nắm vững phương pháp và cách tổ chức cơ bản về môn Mĩ thuật cũng như việc xây dựng cho mình một cách tổ chức dạy học vững chắc, tìm ra những giải pháp dạy học phù hợp của môn Mĩ thuật sẽ có tác dụng và ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động dạy và học, giúp cho giáo viên có một định hướng đúng đắn, phù hợp có một cách thức tổ chức giờ học hợp lý giúp cho học sinh hứng thú tìm hiểu, khám phá thế giới thẩm mĩ một cách say mê, hấp dẫn, góp phần giáo dục nên những con người tòan diện hơn theo 4 mục tiêu : Đức - Trí - Thể - Mĩ , giúp học sinh hòan thiện nhân cách , có ý thức tu dưỡng, biết yêu thương, quý trọng mọi người, biết hướng tới những tình cảm cao đẹp hơn, từ đó điều chỉnh nên những con người mới với những nhân cách tốt. Phải hiểu được đặc điểm tâm lý của trẻ, hiểu biết được mức độ cảm nhận của học sinh về thế giới xung quanh thông qua các bài học. Luôn luôn tôn trọng gần gũi học sinh. Phải có tính kiên trì trong công tác giảng dạy, khéo léo động viên kịp thời đối với các em. Áp dụng nhiều phương pháp trò chơi, phương pháp thích hợp, không áp đặt đòi hỏi quá cao đối với học sinh để giúp các em yêu thích môn học và học tốt hơn. Trong tiết học luôn tạo không khí vui vẻ thoải mái nhẹ nhàng, thu hút lòng say mê của các em đối với tiết học, môn học. Việc quan trọng yêu cầu của mỗi tiết học là giáo viên phải chuẩn bị đầy đủ đồ dùng trực quan, trực quan phải đẹp, hấp dẫn để học sinh quan sát. Sử dụng linh hoạt trong phối hợp các phương pháp dạy học thích hợp. Thường xuyên trao đổi để tìm ra phương pháp dạy học mới, hay hơn. Đầu tư đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào môn Mĩ thuật như: Các phần mềm vẽ, băng đĩa, giảng dạy trên bài giảng PowerPoint ... có như vậy chất lượng học tập mới đạt hiệu quả cao. 2. Bài học kinh nghiệm: Từ thực tế giảng dạy, từ kết quả thiết thực tôi rút ra một số kinh nghiệm cho bản thân: Trên tiết học phải tạo được không khí tiết học thoải mái, hấp dẫn để học sinh có thái độ học tự nguyện, không gò bó. Nghiên cứu chuẩn bị và sử dụng đồ dùng trực quan khoa học, hấp dẫn, đúng lúc, kịp thời. Trau dồi ngôn ngữ để gợi ý, phân tích nội dung cô đọng mang tính định hướng. Rèn luyện, giữ gìn kĩ năng sư phạm, người dạy phải thật sự có kĩ năng thực hành thao tác vẽ để làm hấp dẫn học sinh. Nghiên cứu tham khảo các ngành nghệ thuật khác (điện ảnh, sân khấu) để liên hệ chứng minh, phân tích. Theo sát trào lưu khuynh hướng nghệ thuật đương đại để có cách nhìn tư duy phù hợp với linh hồn mỗi bức tranh của học sinh ở thời đại mới. V. Ý KIẾN ĐỀ XUẤT: Để đáp ứng được nền giáo dục hiện đại, ngành giáo dục cần cung cấp cho bộ môn Mĩ thuật những đồ dùng dạy học mà tại cơ sở trường, địa phương còn thiếu như: + Tranh phiên bản của các họa sĩ để thực hiện ở các bài vẽ tranh và bài thường thức Mĩ thuật (hiện nay tại thư viện còn thiếu rất nhiều). + Mẫu vật, vật thật, hay phòng học Mĩ thuật đúng qui cách để dạy tốt các bài vẽ mẫu, thực hành của HS... Với nhà trường: Cần tiếp tục đầu tư thêm CSVC, đầu tư tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề, thao giảng về phân môn Mĩ thuật tại trường cũng như liên cụm các trường để trau dồi, học tập... Đối với phụ huynh cần quan tâm đến con em mình nhiều hơn, sát thực hơn đối với việc học Mĩ thuật của các em, cụ thể là đồ dùng học tập, động cơ học tập... Trong điều kiện nghiên cứu và vận dụng thực nghiệm đề tài tại cơ sở của bản thân tôi với thời gian cũng chưa nhiều, chắc hẳn nội dung đề tài sẽ chưa được đầy đủ, chặt chẽ. Rất mong được sự đồng tình và đóng góp của quí thầy cô giáo. Gành Hào, ngày 12 tháng 03 năm 2012. Người thực hiện. Lê Ngọc Tân
Tài liệu đính kèm: