Với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đòi hỏi Giáo dục phải tạo ra những con người toàn diện về tri thức, năng động sáng tạo, có khả năng thích ứng với những thay đổi và phát triển của xã hội. Để đạt được mục đích đó đòi hỏi nhà trường phải đổi mới mạnh mẽ về nội dung và phương pháp đào tạo, vận dụng được các thành tựu mới của khoa học ngôn ngữ và khoa học giáo dục, đào tạo ra những con người mới phù hợp với xã hội hiện đại.
Cùng với các môn khoa học khác, môn Tiếng việt ở tiểu học cũng có sự thay đổi mới nhằm nâng cao chất lượng dạy học, đáp ứng với nhu cầu đổi mới nói trên. Tập đọc cùng với các phân môn khác như: học vần, tập viết là nhóm khởi đầu giúp học sinh biết đọc, chiếm lĩnh kho tàng tri thức và văn hóa của loài người trong tàng trữ trong sách vở.
Dạy học có ý nghĩa rất to lớn ở tiểu học. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với những người đi học. Đầu tiên các em phải học đọc, sau đó phải đọc để học. Đọc giúp các em chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học các môn. nó tạo ra hứng thú và là động cơ học tập. Nó tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập suốt cuộc đời. Nó là một khả năng không thể thiếu được của con người thời đại văn minh. Đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ cũng như tư duy của người đọc. Việc dạy học sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi dưỡng cho các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách lô gic cũng như biết tư duy có hình ảnh. Như vậy đọc có ý nghĩa to lớn, nó bao gồm nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM RÈN KỸ NĂNG ĐỌC DIỄN CẢM CHO HỌC SINH LỚP 4 PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ Với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đòi hỏi Giáo dục phải tạo ra những con người toàn diện về tri thức, năng động sáng tạo, có khả năng thích ứng với những thay đổi và phát triển của xã hội. Để đạt được mục đích đó đòi hỏi nhà trường phải đổi mới mạnh mẽ về nội dung và phương pháp đào tạo, vận dụng được các thành tựu mới của khoa học ngôn ngữ và khoa học giáo dục, đào tạo ra những con người mới phù hợp với xã hội hiện đại. Cùng với các môn khoa học khác, môn Tiếng việt ở tiểu học cũng có sự thay đổi mới nhằm nâng cao chất lượng dạy học, đáp ứng với nhu cầu đổi mới nói trên. Tập đọc cùng với các phân môn khác như: học vần, tập viết là nhóm khởi đầu giúp học sinh biết đọc, chiếm lĩnh kho tàng tri thức và văn hóa của loài người trong tàng trữ trong sách vở. Dạy học có ý nghĩa rất to lớn ở tiểu học. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với những người đi học. Đầu tiên các em phải học đọc, sau đó phải đọc để học. Đọc giúp các em chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học các môn. nó tạo ra hứng thú và là động cơ học tập. Nó tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập suốt cuộc đời. Nó là một khả năng không thể thiếu được của con người thời đại văn minh. Đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ cũng như tư duy của người đọc. Việc dạy học sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi dưỡng cho các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách lô gic cũng như biết tư duy có hình ảnh. Như vậy đọc có ý nghĩa to lớn, nó bao gồm nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Ở các lớp 1.2.3 việc đọc của học sinh chỉ dừng lại ở các kỹ năng đọc đúng, rõ ràng, rành mạch các văn bản. So với các lớp dưới, ngoài các kỹ năng đọc trên học sinh lớp 4 còn cần đạt được kỹ năng đọc diễn cảm các văn bản nghệ thuật. Cụ thể: Học sinh phải thể hiện được tình cảm, thái độ của tác giả cũng như giọng điệu của nhân vật trong bài học. Đặc biệt phải biết đọc phù hợp với thể loại và nội dung văn bản. Tuy kỹ năng đọc diễn cảm ở lớp 4 chỉ dừng lại ở mức độ ban đầu nhưng đọc diễn cảm vẫn chiếm vị trí quan trọng. Thông qua đọc diễn cảm người đọc, người nghe sẽ cảm thụ văn học tốt hơn, đây chính là con đường ngắn nhất để người đọc và người nghe cùng cảm nhận được cái hay, cái đẹp về nội dung, nghệ thuật cũng như xúc cảm, tình cảm của tác giả trong tác phẩm. Đọc diễn cảm còn là phương tiện góp phần giúp học sinh thể hiện được suy nghĩ, tình cảm của mình đối với nội dung văn bản. Đồng thời nâng cao hiệu quả giao tiếp của các em trong cuộc sống. Cũng thông qua đọc diễn cảm mà khơi gợi được cảm xúc, lòng say mê đọc các tác phẩm văn học của người nghe nói chung và của học sinh nói riêng. Đọc diễn cảm còn giúp người đọc, người nghe dễ rung động và cảm nhận được cái hay, cái đẹp của con người, người nghe thêm yêu con người, yêu quê hương đất nước và yêu cuộc sống hơn. Đối với học sinh tiểu học để các em hiểu được nội dung tác phẩm và tư tưởng tình cảm của tác giả thì đọc diễn cảm là một nội dung rất quan trọng, cần được coi trọng. Do vậy nâng cao chất lượng đọc diễn cảm là một vấn đề cần được đặt ra từ lâu trong thực tiễn giáo dục bộ môn Tiếng việt, hiểu được tầm quan trọng của việc rèn luyện kỹ năng đọc diễn cảm song quá trình thực hiện quả là khó khăn đối với giáo viên và học sinh cũng như các nhà quản lý. Để góp phần nâng cao chất lượng đọc diễn cảm tác phẩm văn học trong trường tiểu học đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục tôi đã mạnh dạn chọn phân môn Tập đọc để nghiên cứu và đi vào áp dụng thử nghiệm đề tài: Rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4 trong giờ Tập đọc. PHẦN II. NỘI DUNG I. Đặc điểm kỹ năng sử dụng Tiếng việt của học sinh tiểu học: Như chúng ta đã biết chương trình mới hiện nay là dạy học theo hướng giao tiếp để thực hiện mục tiêu hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng việt( đọc, nghe, nói, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Chuyển từ dạy học nặng về cung cấp tri thức sang dạy học gắn với thực hành vì vậy nên phần lý thuyết giảm mà bài tập tăng lên, đưa học sinh đi vào chính hoạt động của mình để chiếm lĩnh tri thức dựa trên các hoạt động tích cực, chủ động sáng tạo của mình dưới sự hướng dẫn của thầy cô giáo. II Thực trạng của việc dạy đọc diễn cảm ở lớp 4 hiện nay: Về phía giáo viên: Được tham gia đầy đủ các lớp học chuyên đề, tập huấn chuyên đề đầy đủ nhưng một bộ phận giáo viên vẫn chưa quan tâm đến rèn đọc diễn cảm cho học sinh, chưa thực sự có những biện pháp tích cực, thích hợp với từng đối tựơng học sinh để khơi dậy hứng thú, khả năng đọc diễn cảm của học sinh. Không ít giáo viên còn hạn chế về kỹ năng hiểu và cảm thụ bài tập đọc.Bản thân giáo viên còn phát âm tiếng địa phương, năng lực đọc diễn cảm còn hạn chế nhưng tự bằng lòng với chính mình, ít đào sâu suy nghĩ, tìm tòi nhất là tự học thông qua các tài liệu vì vậy giờ tập đọc chỉ dừng lại ở giúp học sinh đọc đúng, đọc nhanh mà chưa thực sự chú ý đến kỹ năng đọc hiểu và đọc diễn cảm. Về phía học sinh: Phần lớn các em đã đọc đúng, đọc lưu loát. Tuy nhiên việc đọc hiểu và đọc diễn cảm văn bản còn hạn chế. Các em có thể đọc hay nhưng ngắt nhịp sai, có thể đọc diễn cảm nhưng không hiểu nội dung. Khả năng tư duy ở học sinh tiểu học còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn giản trực quan nên việc cảm thụ văn học của học sinh còn gặp nhiều khó khăn. Vốn sống và vốn kiến thức văn học của học sinh nhất là học sinh vùng thôn quê chúng tôi còn hạn chế. Đa số các em là con những gia đình có bố mẹ làm nghề nông thuần túy nên số phụ huynh có điều kiện và có ý thức mua sách báo cho con em đọc còn ít. Nguồn sách báo cung cấp chủ yếu của các em là thư viện nhà trường và sách báo của Đội. Hơn nữa không ít em chưa có thói quen đọc sách, ham đọc sách vì thế các em ít có sự say mê với các tác phẩm văn học. Một số em còn thiếu tự tin trong giao tiếp: rụt rè, nhút nhát. III. Nguyên nhân của thực trạng: Quá trình học của các em phụ thuộc vào sự chú ý, hứng thú đối với bài học. Ở lứa tuổi này nhận thức cảm tính trực quan ghi nhớ không chủ định của các em vẫn giữ vai trò quan trọng. Học sinh thường thuộc bài một cách máy móc, chưa biết sử dụng ghi nhớ có điểm tựa, chưa biết cách phân chia tài liệu. Mặt khác sự phát triển của các em không giống nhau dẫn đến sự khó khăn của giáo viên trong việc hình thành và rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh. Trình độ của giáo viên còn có sự chênh lệch, một số ít giáo viên chưa linh hoạt khi lựa chọn hình thức dạy học phù hợp với nội dung bài dạy. Đồ dùng dạy học là phương tiện trực quan chủ yếu trong tiết Tập đọc là ngôn ngữ của giáo viên và bài Tập đọc trong sách giáo khoa chưa được giáo viên sử dụng thường xuyên. Việc phân chia thời lượng có lúc còn dàn trải trong tiết học; hoạt động của giáo viên và học sinh có lúc thiếu nhịp nhàng. Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến con em mình, còn có quan điểm” trăm sự nhờ nhà trường, nhờ cô” cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập bộ môn. IV. Biện pháp: Nhận thức được tầm quan trọng đó của môn Tiêng việt nói chung và phân môn Tập đọc nói riêng. Qua thực tế nhiều năm dạy học của bản thân và học hỏi ở bạn bè đồng nghiệp. Qua nghiên cứu một số tài liệu tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm nhỏ giúp học sinh lớp 4 rèn kỹ năng đọc diễn cảm. Sau đây là một số biện pháp mà tôi đã sử dụng: 1. Luyện đọc: Để tạo cơ sở cho mọi đối tượng đọc diễn cảm tốt, giáo viên phải làm tốt khâu luyện đọc. Mặc dầu đã học lớp 4 nhưng vẫn không tránh khỏi những em đọc ấp úng, đọc chưa rành mạch, tốc độ đọc chưa đạt yêu cầu. Có những em lại rụt rè, nhút nhát, thiếu tự tin nên dẫn đến đọc còn nhỏ và không trôi chảy. Đối với những trường hợp trên tôi luôn kiên trì, không nôn nóng trong việc rèn đọc dúng cho các em, tôi luôn quan tâm đến từng đối tượng, cụ thể: Với những em đọc ấp úng, ê a, đọc chưa rành mạch tôi tăng cường cho các em đọc nhiều, nhắc các em tự luyện đọc nhiều lần ở nhà. Trên lớp tôi thường xuyên gọi đọc trong tất cả các giờ học, tôi còn xếp các em vào cùng nhóm với những em đọc tốt để các em giúp đỡ nhau trong học tập. Đối với những em có tốc độ đọc chậm tôi thường tổ chức cho các em thi đọc trong một thời gian nhất định để tăng dần tốc độ đọc cho các em. 2. Lồng ghép đọc diễn cảm vào tất cả các bước trong giờ học Tập đọc Để học sinh đọc diễn cảm tốt theo tôi người giáo viên cần hết sức khéo léo trong việc lồng ghép đọc diễn cảm vào từng bước lên lớp trong giờ tập đọc chứ không chỉ luyện đọc diễn cảm ở phần luyện đọc diễn cảm. Khi lồng ghép cần chú ý không làm đứt mạch , dán đoạn bước lên lớp đó. Chỉ lồng ghép đọc diễn cảm khi có điều kiện thuận lợi và đảm bảo phù hợp với trình độ năng lực của học sinh trong lớp. cụ thể là: a. Trong bước luyện đọc dúng: Trong quá trình luyện đọc đúng tôi đặc biệt quan tâm tới những đối tượng học sinh còn mắc lỗi về ngữ âm, cho học sinh đọc bài theo cách nồi tiếp, đọc cá nhân, cho học sinh phát hiện tiếng khó đọc hoặc gọi bạn phát hiện xem bạn đọc sai tiếng nào thì giáo viên tập cho học sinh đọc dúng từ, câu có tiếng đó. Với yêu cầu nội dung và phương pháp phù hợp cụ thể cho từng đối tượng thì mọi học sinh đều có thể đọc diễn cảm được. Tổ chức cho đọc diễn cảm theo cặp, theo nhóm để học sinh có sự phát hiện và sửa cách đọc cho nhau. b. Trong bước tìm hiểu bài: Để học sinh có thể đọc diễn cảm được trước hết học sinh phải cảm thụ được văn bản. Muốn học sinh cảm thụ được hết văn bản thì học sinh phải được bồi dưỡng vững chắc về kiến thức văn học. Chính vì vậy khi dạy Luyện từ và câu, Tập làm văn giáo viên cần cung cấp cho học sinh kiến thức tiếng việt để từ đó học sinh có cơ sở cảm thụ được văn bản. Khi dạy các bài tập đọc có nội dung miêu tả hoặc theo kết cấu truyện kể tôi thường cho học sinh dựa vào kiến thức đã học trong môn Luyện từ và câu, Tập làm văn để phân tích, phát hiện các biện pháp nghệ thuật trong miêu tả cũng như xây dựng tính cách nhân vật từ đó đề ra cách đọc sáng tạo, phù hợp. Để tạo cơ sở cho việc đọc diễn cảm tốt tôi khéo lồng ghép việc rèn đọc diễn cảm ngay trong bước tìm hiểu bài khi có điều kiện. Có những bài Tập đọc còn phải sử dụng bài tập để rèn luyện kỹ năng sử dụng Tiếng việt. Việc xây dựng một hệ thống bài tập thích hợp nhằm thực hiện tới mức thành thục các thao tác nói năng của học sinh, phản ánh một cách bao quát cơ chế lĩnh hội và sản sinh văn bản nhất là ở phân môn Tập đọc – môn học hầu như rèn luyện được tất cả các kỹ năng: đọc – nghe – nói – viết. Chính vì vậy sử dụng các loại bài tập rất quan trọng trong giờ tập đọc. Sau đây là một số bài tập: Bài tập1: Bài thơ gửi đến mọi người thông điệp gì? Hãy dành cho trẻ em những điều tốt đẹp nhất. Hãy cho trẻ em đến trường. Hãy dành cho trẻ em sự yêu thương, chăm sóc. ( Chuyện cổ tích về loài người) Bài tập 2: Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào để miêu tả hoa phượng? a. So sánh b. Nhân hóa c. Cả so sánh và nhân hóa ( Hoa học trò) Bài tập 3: Qua bài thơ tác giả đã nói gì về vẻ đẹp của biển? ( Đoàn thuyền đánh cá) Bài tập 4: Tìm những từ nói lên vẻ đẹp của Ăng-co vát. ( Ăng-co vát) 3. Rèn kỹ năng đọc diễn cảm: Đọc diễn cảm là một yêu cầu đặt ra khi đọc văn bản văn chương hoặc các yếu tố của ngôn ngữ nghệ thuật. Đó là việc đọc thể hiện ở kỹ năng làm chủ ngữ điệu, chỗ ngừng giọng để biểu đạt đúng ý nghĩa và tình cảm mà tác giả đã gửi gắm trong bài Tập đọc, đồng thời biểu hiện được cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm. Đọc diễn cảm thể hiện năng lực đọc ở trình độ cao và chỉ thực hiện được trên cơ sở đọc đúng và đọc lưu loát. Khả năng mức độ của từng người là khác nhau dẫn đến việc mọi người có thể thể hiện cách đọc sáng tạo. Dựa vào mục tiêu của từng bài cụ thể và dựa vào khả năng của từng đối tựơng học sinh trong lớp tôi hướng dẫn các em đọc diễn cảm như sau: + Sử dụng hình thức học nhóm: Tôi không áp đặt sẵn giọng đọc của bài mà để cho học sinh thảo luận nhóm, đề xuất cách đọc từng đoạn, cả bài. Sơ bộ lý giải vì sao lại đọc như vậy. Lúc đó học sinh có đề xuất khác nhau, thảo luận cách nào đọc đúng nhất. Tôi chỉ là người lắng nghe và đưa ra kết luận cuối cùng tức là can thiệp một cách đúng lúc để làm tốt vai trò tích cực của học sinh trong bước tìm hiểu bài và cảm thụ bài Tập đọc. + Ngắt giọng theo ngữ pháp: Trong mỗi giờ Tập đọc tôi chú ý cho học sinh tập phát hiện đến chỗ cần ngừng, nghỉ hơi cho phù hợp với quy tắc ngữ pháp bằng cách cho học sinh dùng bút chì gạch một gạch (/) đối với chỗ cần ngắt hơi, gạch hai gạch (//) đối với chỗ nghỉ hơi dựa trên những vốn kiến thức đã có từ việc học phân môn Luyện từ và câu về cách ngắt , nghỉ giọng khi gặp dấu phẩy, dấu chấm ngắt hơi giữa trạng ngữ và thành phần chính Ví dụ : Cho học sinh thảo luận tập phát hiện những chỗ cần ngắt giọng đúng quy tắc ngữ pháp trong đoạn văn: “ Tôi đã ngửa cổ suốt một thời mới lớn//để chờ đợi một nàng tiên áo xanh bay xuống từ trời/và bao giờ cũng hy vọng khi tha thiết cầu xin:// “Bay đi diều ơi //bay đi./ Cách diều tuổi ngọc ngà bay đi/mang theo nỗi khát khao của tôi” (Cánh diều tuổi thơ – Tạ Duy Anh) Ngắt nghỉ theo cụm từ và cách giữ hơi ở những câu văn dài vì đây là việc làm khó nên tôi thường hướng dẫn học sinh bằng cách cho học sinh thảo luận tìm ra chỗ ngắt nghỉ hơi. Nếu học sinh không tìm ra thì tôi đọc mẫu để học sinh phát hiện chỗ cần ngắt nghỉ hơi. Ngắt theo nhịp thơ : Ngay từ bước đầu giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách nhận biết thể thơ, tìm ra nhịp thơ phổ biến từ đó có cách ngắt giọng phù hợp. Ví dụ: Thơ lục bát thì nhịp thơ phổ biến là 2/4 và 4/4. Vì vậy khi đọc bài “ Mẹ ốm” của Trần Đăng Khoa Học sinh phải biết phát hiện và ngắt đúng nhịp thơ ở mỗi dòng thơ trong hai câu thơ sau: Cánh màn/ khép lỏng cả ngày Ruộng vườn vắng mẹ/ cuốc cày sớm trưa. Nắng mưa/ từ những ngày xưa Lặn trong đời mẹ/ đến giờ chưa tan.// Nhịp thơ có thể ngắt rất linh hoạt tùy thuộc vào ý nghĩa ngữ pháp của mỗi dòng thơ, câu thơ đặc biệt là trong thể thơ tự do, học sinh khó có thể tìm ra nhịp thơ phổ biến. Vì vậy cần có sự hướng dẫn gợi mở từ giáo viên. Tôi đặc biệt chú ý hướng dẫn học sinh cách lấy hơi và ngắt hơi khi đọc thơ sao cho có ngắt nhịp, có ngữ điệu mà vẫn mượt mà tự nhiên. Đoạn thơ tuy có nhiều câu thơ, dòng thơ nhưng ý thơ vẫn liền một mạch từ đầu đến cuois không bị gián đoạn. Vì vậy phải đọc sao cho nhịp thơ rõ mà ý thơ vẫn liền mạch theo cảm xúc. Lưu ý học sinh cách đọc thơ với giọng chậm rãi, thong thả, tự nhiên và có sức rung động từ bên trong. Khi đọc các bài văn xuôi , chỗ ngắt giọng phải trùng hợp với ranh giới ngữ đoạn. Khi đọc bài thơ chỗ ngắt nhịp phải tương ứng với chỗ kết thúc một tiết đoạn. Đọc sai chỗ ngắt giọng phản ánh một cách hiểu sai nghĩa hoặc ít ra là một cách đọc không để ý đến nghĩa. Vì vậy đọc đúng ngữ điệu nói chung. ngắt đúng giọng đúng nói riêng vừa là mục đích của dạy đọc thành tiếng vừa là phương tiện giúp học sinh chiếm lĩnh nội dung bài đọc. Sự phân chia lời ở dạng nói thành ngữ đoạn nhiều khi không được ghi lại bằng dấu câu. Trong thơ hầu như đã lược bỏ dấu câu. chưa kể ỏ những bài văn xuôi tác giả đã không dùng dấu phẩy như yêu cầu ngữ pháp của nhà trường. Đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh đọc không đúng chỗ ngắt giọng. Trên thực tế cho thấy ở mỗi bài văn xuôi học sinh thường mắc lỗi ở những câu dài, có cấu trúc ngữ pháp phức tạp, các em thường ngắt giọng để lấy hơi tùy tiện. Khi đọc thơ học sinh thường mắc lỗi ngắt nhịp không tính đến nghĩa mà chỉ đọc theo theo áp lực của nhịp thơ. Vì vậy khi dạy bài tập đoc giáo viên cần xác lập được mẫu cần ngắt giọng đúng cho một bài Tập đọc đồng thời dự tính được cách đọc không tính đến nghĩa của học sinh giáo viên cần dự tính được những chỗ học sinh hay ngắt giọng sai để xác định điểm cần luyện ngắt gọng. Bên cạnh đó cần dạy học sinh ngắt giọng biểu cảm là chỗ lắng sự im lặng có tác dụng truyền cảm, là chỗ ngừng sâu hơn bình thường hoặc chỗ ngừng không lôgic ngữ nghĩa mà do dụng ý của người đọc nhằm gây ấn tượng về cảm xúc , tập trung sự chú ý của người nghe vào những từ ngữ sau chỗ ngừng, những từ mang trọng âm ngữ nghĩa. Cách thể hiện điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt là những biểu hiện bên ngoài của người đọc có tác dụng bổ sung cho ngữ điệu đọc diễn cảm. Nét mặt phải thể hiện được thái độ của người đọc đối với nội dung của tác phẩm một cách tự nhiên. Khi đọc một truyện vui nét mặt phải tươi sáng. Đọc một câu chuyện buồn nét mặt cũng biểu lộ sự đồng cảm. Ví dụ: khi đọc bài “ Người ăn xin “ của Tuốc-ghê- nhép( Tiếng việt 4- Tập 1) người đọc phải thể hiện được nét mặt buồn, ánh mắt đồng cảm khi đọc đến đoạn miêu tả sự đau khổ, đáng thương của ông lão ăn xin: “ Đôi mắt ông lão đỏ đọc và dàn dụa. Đôi môi tái nhợt, áo quần tả tơi thảm hại. Chao ôi! Cảnh nghèo đói đã gặm nát con người đau khổ kia thành xấu xí biết nhường nào.” 4. Hoạt động ngoại khóa: - Cùng với học sinh xây dựng tủ sách lớp học bằng cách quyên góp và mượn những đầu sách, truyện bào của học sinh. - Đọc cho học sinh nghe những tác phẩm dành cho thiếu nhi ngoài sách gáo khoa như: “Dế Mèn phiêu lưu kí” của Tô Hoài; Hai đướ trẻ của Thạch Lamvào các giờ sinh hoạt lớp, giờ nghỉ giải lao để bồi dưỡng cho học sịnh niềm say mê văn học. - Thành lập các nhóm đọc ngoại khóa gồm học sinh đọc diễn cảm tốt và những em đọc chưa tốt để học sinh hỗ trợ nhau trong việc đọc ngoài giờ. - Tổ chức cho học sinh đọc diễn cảm trong giờ sinh hoạt hoặc sịnh hoạt đội III. KẾT LUẬN: Trong một năm giảng dạy và áp dụng những biện pháp trên tôi thấy chất lượng đọc diễn cảm của học sinh đã được nâng lên rõ rệt. Học sinh lớp tôi ngày càng hào hứng, say mê và yêu thích môn học này. Ngoài việc đọc đúng văn bản các em còn đọc hay, đọc đúng , đọc diễn cảm hơn có em còn đọc diễn cảm tiến bộ nhanh mà tôi không ngờ tới. Kết quả cụ thể như sau: Kết quả đầu năm: Sĩ số Đọc đúng Đạt yêu cầu về kỹ năng đọc diễn cảm Đọc diễn cảm tốt 30 em 20em = 66,7% 7 em = 23,3% 3 em = 10% Kết quả khảo sát cuối năm ( Sau khi vận dụng phương pháp đã trình bày trên): Sĩ số Đọc đúng Đạt yêu cầu về kỹ năng đọc diễn cảm Đọc diễn cảm tốt 30 8em = 26,7% 12em = 40% 10em = 33,3% Trong quá trình nghiên cứu tôi đã tham khảo các tài liệu dạy học của phân môn cũng như học hỏi từ bạn bè đồng nghiệp. Qua thự tế giảng dạy áp dụng những biện pháp trên tôi thấy rằng: Ngay từ đầu năm học giáo viên phải tập cho học sinh làm quen ngay với cách học, dần dần tập cho học sinh có thói quen thực hiện tốt vai trò của mình trong nhóm, thể hiện giọng đọc đúng, đọc diễn cảm, phát huy tính tích cực hoạt động của học sinh. Qua thự tế giảng dạy tôi thấy các biện pháp trên có tính khả thi. Chất lượng học sinh được nâng cao rõ rệt. Học sinh học tập tích cực, hứng thú đem lại hiệu quả cao trong giờ Tập đọc. Tuy nhiên qua quá trình nghiên cứu cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong sự góp ý của các đồng chí lãnh đạo cũng như các bạn bè đồng nghiệp để đề tài của tôi có tính khả thi hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn. Diễn Cát, ngày 28 tháng 4 năm 2010 Người viết: Lê Thị Thanh Hải
Tài liệu đính kèm: