Như chúng ta đã biết, cấp Tiểu học là bậc học đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách của học sinh. Đây là bậc học cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về tự nhiên và xã hội, trang bị những kiến thức kỹ năng đầu tiên về hoạt động thực tiễn, bồi dưỡng, phát huy những tình cảm, thói quen và đức tính tốt của con người. Trong 9 môn học của bậc Tiểu học thì Tiếng Việt là môn học giữ vị trí quan trọng, bởi nó là công cụ để giao tiếp và tư duy. Không một quốc gia nào không chăm lo đến việc dạy tiếng mẹ đẻ trong nhà trường Tiểu học. Đó là môn học góp phần hình thành và phát triển ở học sinh 4 kỹ năng: nghe – nói – đọc – viết. Trong môn Tiếng Việt thì phân môn Tập làm văn lại chiếm 1 vị trí khá quan trọng vì nó là sự “ tích hợp “ 4 kỹ năng của học sinh.
Trong đời sống, muốn người khác công nhận ra những điều mình đã nhìn thấy, đã sống, đã trải qua chúng ta phải miêu tả. Trong văn học, các câu chuyện, các cuốn tiểu thuyết, thậm chí ngay cả trong văn nghị luận hay văn viết thư, nhiều lúc ta cũng chen vào các đoạn văn miêu tả. Vì thế, có thể nói văn miêu tả có một vị trí quan trọng trong sáng tác văn chương. Cũng vì thế văn miêu tả chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình tập làm văn bậc tiểu học.
A. §Æt vÊn ®Ò I, Cơ sở khoa học của vấn đề: 1, Cơ sở lý luận: Như chúng ta đã biết, cấp Tiểu học là bậc học đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách của học sinh. Đây là bậc học cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về tự nhiên và xã hội, trang bị những kiến thức kỹ năng đầu tiên về hoạt động thực tiễn, bồi dưỡng, phát huy những tình cảm, thói quen và đức tính tốt của con người. Trong 9 môn học của bậc Tiểu học thì Tiếng Việt là môn học giữ vị trí quan trọng, bởi nó là công cụ để giao tiếp và tư duy. Không một quốc gia nào không chăm lo đến việc dạy tiếng mẹ đẻ trong nhà trường Tiểu học. Đó là môn học góp phần hình thành và phát triển ở học sinh 4 kỹ năng: nghe – nói – đọc – viết. Trong môn Tiếng Việt thì phân môn Tập làm văn lại chiếm 1 vị trí khá quan trọng vì nó là sự “ tích hợp “ 4 kỹ năng của học sinh. Trong đời sống, muốn người khác công nhận ra những điều mình đã nhìn thấy, đã sống, đã trải qua chúng ta phải miêu tả. Trong văn học, các câu chuyện, các cuốn tiểu thuyết, thậm chí ngay cả trong văn nghị luận hay văn viết thư, nhiều lúc ta cũng chen vào các đoạn văn miêu tả. Vì thế, có thể nói văn miêu tả có một vị trí quan trọng trong sáng tác văn chương. Cũng vì thế văn miêu tả chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình tập làm văn bậc tiểu học. 2, Cơ sở thực tiễn: Theo chương trình đổi mới sách giáo khoa lớp 4, văn miêu tả chiếm 30/62 tiết Tập làm văn của cả năm học. Bao gồm các kiểu bài: tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật. Như vậy, việc rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh là một việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết. Điều đó tạo tiền đề vững chắc để học sinh làm được những bài văn hay, câu văn súc tích, giàu hình ảnh, diễn đạt rõ ý, cảm xúc chân thật, sinh động và sáng tạo. Để tạo điều kiện cho học sinh có những cơ sở học tốt tất cả các kiểu bài miêu tả ( kể cả tả cảnh và tả người ở lớp 5 ) đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học. Lấy học trò làm trung tâm, còn thầy chỉ là người tổ chức hướng dẫn, trò tự khám phá và lĩnh hội tri thức. Có như vậy thì mới nâng cao được hiệu quả và chất lượng giảng dạy. Khi vào thực tế giảng dạy, tôi thấy phần lớn học sinh còn lúng túng, vụng về, gặp nhiều khó khăn khi làm văn miêu tả nói chung và tả cây cối nói riêng. Số học sinh làm được một bài văn hay, có sáng tạo thật là ít. Hầu hết khi miêu tả các em chỉ đưa ra những nhận xét chung chung, câu văn thì rườm rà, diễn đạt ý thì lủng củng Điều này đã làm tôi trăn trở và lo lắng. Xuất phát từ cơ sở mang tính lý luận và thực tiễn như trên, nhằm đáp ứng nhu cầu: “Làm thế nào để các em viết được những câu văn, đoạn văn, bài văn hay. Giúp các em tự tin, phấn khởi và yêu thích phân môn Tập làm văn. Tôi quyết định chọn đề tài: “Rèn kỹ năng viết bài văn miêu tả – kiểu bài tả cây cối cho học sinh lớp 4.” Qua đó giúp giáo viên tự điều chỉnh phương pháp dạy học để tiết học diễn ra nhẹ nhàng và có hiệu quả cao. II, Mục đích viết sáng kiến kinh nghiệm: Giúp học sinh lớp 4 có kỹ năng làm bài văn miêu tả cây cối hay, sinh động và sáng tạo Giúp giáo viên khối 4 có một số kiến thức và kinh nghiệm khi hướng dẫn học sinh viết bài văn miêu tả nói chung và tả cây cối nói riêng. Giúp bản thân tự học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn III, Đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu: Đối tượng - phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 4C trường Tiểu học Thọ An – Đan Phượng – Hà Nội. 2 – Thời gian nghiên cứu: Năm học: 2008 – 2009 B. Qu¸ tr×nh triÓn khai thùc hiÖn I, Khảo sát thực tế: 1. Tình trạng khi chưa thực hiện: Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy trên lớp, tôi nhận thấy rằng các em rất ngại học phân môn Tập làm văn, nhất là khi làm bài văn viết. Bởi kỹ năng làm bài của các em còn hạn chế, chất lượng bài làm chưa cao. Cụ thể là các em chưa biết cách quan sát cây cối để miêu tả. Nhiều em còn chưa hiểu quan sát là gì? Thường thì nhìn thấy cái gì các em nghĩ cái đó theo kiểu liệt kê, chứ không biết chắt lọc các chi tiết quan sát được. Mặt khác do vốn từ của các em chưa phong phú nên các em dùng từ chưa chính xác, sử dụng câu què cụt, nhạt nhẽo, không chọn lọc. Cách diễn đạt ý của câu văn mang tính chất văn nói nên khi đọc gây cảm giác rườm rà, lủng củng, lộn xộn, Hầu hết các em chưa biết cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật như nhân hóa, so sánh, điệp từ, điệp ngữ, từ láy, nên bài văn của các em tuy đủ ý nhưng rất khô khan. Bên cạnh đó còn một số bài viết mắc nhiều lỗi chính tả. Có em viết hết cả bài văn mà không có lấy một dấu chấm, một lần xuống dòng. Có em lại chấm phảy một cách tùy tiện. Nói tóm lại, khi viết một bài văn miêu tả nói chung và tả cây cối nói riêng, học sinh gặp rất nhiều khó khăn. Đứng trước một thực trạng như vậy thì bất cứ người giáo viên nào cũng phải băn khoăn lo lắng. 2. Số liệu điều tra trước khi thực hiện: Trước khi thực hiện đề tài, tôi cho học sinh làm một bài kiểm tra. Đề bài: Tả một cây ăn quả mà em yêu thích. Kết quả làm bài của các em thu được như sau: Tổng số học sinh Điểm giỏi (9 – 10) Điểm khá (7 – 8) Điểm trung bình (5 – 6) Điểm yếu (1, 2, 3, 4) 33 học sinh 0 7 em = 21,2% 15 em = 45,5 % 11 em = 33,3% II. Các biện pháp thực hiện: Để giúp học sinh viết được một bài văn miêu tả cây cối hay, có tính sáng tạo, giàu hình ảnh thì trước hết cần giúp các em hiểu rằng: tả cây cối là dùng lời văn của mình giúp người đọc như thấy cụ thể trước mắt cái cây đó hình dáng như thế nào? Gốc, rễ, thân, cành, lá ra sao? Hoa và quả có màu sắc và hương vị gì? Vì vậy ngay sau khi học xong bài: “Thế nào là văn miêu tả?” tôi đã khắc sâu cho học sinh hiểu: Khi miêu tả các em không được đưa ra lời nhận xét chung chung như cây này rất cao, lá của nó nhỏ, thân của nó to mà phải làm cho người đọc thấy được cái cây em tả có đặc điểm gì riêng biệt giúp người đọc phân biệt cây đó với các cây khác cùng loài. Để giúp học sinh làm được việc này tôi đã nghiên cứu và đưa ra các biện pháp như sau: Biện pháp 1: Giúp học sinh nắm chắc yêu cầu của đề bài. Đây là một việc làm rất quan trọng, bới nó giúp học sinh định hướng được công việc mình sẽ làm: Đó là xác định được bài văn thuộc thể loại bài văn gì? Kiểu bài gì? Đối tượng miêu tả là gì?... Từ đó giúp các em không đi lạc yêu cầu của đề. Sau khi nêu xong đề bài, tôi ghi lên bảng rồi yêu cầu 2 học sinh đọc lại. Ví dụ: Trước cổng nhà em hay trong khu nhà nơi em ở, trên đường em đi học hay giữa sân trường có một cái cây cho bóng mát. Em hãy tả lại cái cây đó. Tôi hướng dẫn các em như sau: Đề bài thuộc thể loại văn gì? (miêu tả) Kiểu bài nào? (tả cây cối) Đối tượng miêu tả là gì? (cây cho bóng mát) + Thảo luận nhóm đôi trả lời câu hỏi: Kể tên các loại cây cho bóng mát? (bàng, xà cừ, phượng vĩ,) + Gọi học sinh trình bày kết quả thào luận. + Cả lớp nhận xét. Sau khi học sinh trả lời xong, tôi chốt lại yêu cầu và dùng phấn màu gạch chân các từ ngữ quan trọng. Tóm lại: Theo tôi nếu giáo viên cũng làm rõ yêu cầu như vậy thì chắc chắn sẽ không có một bài văn nào của học sinh bị lạc đề. Biện pháp 2: Rèn kỹ năng quan sát cây cối: Đây là biện pháp được voi là cơ bản nhất. Bởi kết quả của quan sát được thể hiện rõ trong từng bài làm của học sinh. Em nào quan sát tinh vi, thấu đáo thì em đó sẽ nhận ra được những nét riêng biệt, đặc sắc của loài cây mình định tả để thể hiện trong bài viết. Còn em nào quan sát hời hợt, phiến diện thì bài viết của các em sẽ khô khan, nông cạn. Để giúp các em tìm ra được những nét riêng biệt, tiêu biểu cho từng lọai cây tôi sử dụng các thao tác rèn kỹ năng như sau: a, Quan sát tỷ mỷ các bộ phận của cây theo 1 trình tự hợp lý: Các em có thể quan sát theo các trình tự sau: - Quan sát theo trình tự từng thời kỳ phát triển của cây. - Quan sát theo trình tự từng bộ phận của cây. - Quan sát theo trình tự từng thời kỳ phát triển của một bộ phận trên cây (Ví dụ: hoa, quả) Song dù quan sát theo trình tự nào thì các em cũng phải dừng lại ở bộ phận chủ yếu, trọng tâm để quan sát kỹ hơn. Ví dụ: Quan sát cây bàng. Tôi hướng dẫn các em quan sát theo trình tự: + Quan sát từ xa: Hình dáng của cây khi nhìn từ xa. + Quan sát khi đến gần: - Gốc, rễ, thân, cành, lá, hoa, quả. - Cảnh vật xung quanh tác động đến cây (nắng, gió, khí hậu, chim chóc, ong bướm, con người) Đó chính là quan sát bao quát rồi quan sát từng bộ phận của cây bàng. b, Quan sát cây cối bằng nhiều giác quan: Đây là thao tác quan trọng nhất và có tính chất quyết định nhiều mặt. Thông thường học sinh chỉ dùng mắt để quan sát. Do đó, kết quả thu được thường chỉ là các nhận xét và cảm xúc gắn liền với thị giác. Xong tôi đã hướng dẫ các em biết cách phối hợp nhịp nhàng các giác quan để quan sát. Ví dụ: Quan sát cây bàng: Tôi hướng dẫn như sau: Các em dùng mắt để quan sát từ xa xem hình dáng của nó như thế nào? trông nó giống cái gì?(cái ô khổng lồ, lâu đài nấm) Em hãy dùng tay để sờ xem vỏ cây của cây bàng như thế nào (sần sùi, hơi nham nháp) Em hãy dùng mắt và tai để quan sát và lắng nghe xem trên cây có những loài vật nào? Chúng làm gỉ? Với mỗi bộ phận của cây tôi đều có một câu hỏi gợi ý và giúp các em sử dụng từ ngữ để ghi lại những gì quan sát được. Nếu giáo viên làm tốt thao tác này là đã góp phần vào sự thành công của việc rèn kỹ năng quan sát cây cối cho học sinh. c, Quan sát để phát hiện, tìm ra ... qua cách dùng từ của Xuân Diệu. Để giúp người đọc cảm nhận được số lượng hoa phượng ra nhiều và rất đẹp, ông đã sử dụng một loạt các điệp từ, điệp ngữ để diễn tả điều đó: “Phượng không phải là một đóa, không phải vài cành. Phượng đây là cả một loạt, cả một vùng, cả một góc trời đỏ rực. Mỗi hoa chỉ là một phần tử của cái xã hội thắm tươi, người ta quên đóa hoa, chỉ nghĩ đến cây, đến hàng, đến những tán hoa lớn xòe ra như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau”. Để giúp học sinh hiểu khi quan sát cây cối người ta cần phải phối hợp nhiều giác quan. Tả lá phượng tác giả viết: “Lá xanh um, mát rượi, ngon lành như lá me non.” Chỉ bằng một câu nhưng tác giả đã sử dụng tới ba giác quan: mắt (xanh um), khứu giác (mát rượi), vị giác (ngon lành). Tóm lại: Ta thấy các từ ngữ miêu tả trong các bài tập đọc rất đa dạng và phong phú, chúng được sử dụng rất hay, sinh động, gây ấn tượng. Cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong các bài Tập đọc cũng rất là sáng tạo. Bằng cách này tôi đã giúp học sinh tích lũy thêm vốn từ và học cách sử dụng chúng, đồng thời thông qua các bài Tập đọc tôi cũng giúp các em hiểu thêm rằng để một bài băn miêu tả hay thì cần phải sử dụng các biện pháp nghệ thuật hợp lý. b, Dạy Tập làm văn thông qua môn Luyện từ và câu: - Mục tiêu chính của luyện từ và câu là giúp học sinh mở rộng vốn từ; cách sử dụng từ chính xác, cách viết câu đủ ý. Khi dạy về các nội dung mở rộng vốn từ theo từng chủ điểm, tôi giúp học sinh hiểu rõ nghĩa các từ ngữ, các thành ngữ, các tục ngữ thuộc chủ điểm đó. Từ đó sẽ giúp các em sử dụng các từ ngữ đó chính xác, hợp lý. Để tích lũy vốn từ cho học sinh tôi cho học sinh tìm thêm các từ đồng nghĩa, từ gần nghĩa, từ trái nghĩa. Ví dụ: Bên cạnh tính từ “đỏ” dùng để miêu tả hoa hồng (hoa phượng) còn có nhiều từ ngữ khác như: đỏ rực, đỏ tươi, đỏ thẫm, đỏ chót, đỏ như son, đỏ như lửa tùy từng sự vật mà học sinh có thể lựa chọn nên dùng từ ngữ nào cho phù hợp.. Trong các tiết Luyện từ và câu có nội dung về ngữ pháp, ngoài việc dạy các em cách viết câu đúng, tôi luôn tìm cách dạy các em cách viết câu văn có hình ảnh. Trong tất cả các bài tập dùng từ đặt câu, tôi luôn đặt một câu văn đủ ý bên cạnh một câu văn khác đủ ý nhưng có hình ảnh để các em so sánh. Ví dụ: Tả hình dáng của một cây bàng cổ thụ, tôi đưa ra hai câu: Câu 1: Thân cây to, cao. Câu 2: Thân cây to cao nhìn xa như một chiếc ô lớn khổng lồ. Tôi cho học sinh nhận xét xem câu nào hay hơn (100% học sinh trả lời là câu 2 hay hơn vì nó tạo cho người đọc hình ảnh rất cụ thể nó to, cao đến chừng nào Tóm lại: Với biện pháp này, tôi đã rèn cho học sinh kỹ năng viết câu văn có hình ảnh, đủ ý. c, Dạy Tập làm văn thông qua môn chính tả: - Như ở phần thực trạng tôi đã trình bày, bài văn của các em bị sai lỗi chính tả rất nhiều, điều đó gây khó chịu cho người đọc. vì vậy trong tất cả các tiết chính tả, tôi luôn chú ý rèn cho các em có ý thức viết đúng chính tả (đây cũng là mục tiêu của các môn Chính tả). - Ngoài ra thông qua giờ chính tả, tôi cũng giúp các em tích lũy thêm vốn từ ngữ miêu tả và cách sử dụng chúng. + Ví dụ 1: Khi dạy bài chính tả tuần 11 Tiếng việt 4 – Tập 1 Thông qua bài tập: “Điền vào chỗ s/x”. Sau khi học sinh thực hiện xong yêu cầu chính, tôi gọi học sinh đọc lại: “Trái nhót như ngọn đèn tín hiệu Trở lối sang mùa hè Quả cà chua như cái đèn lồng nhỏ xíu Thắp mùa đông ấm những đêm thâu Quả ớt như ngọn lửa đèn dầu Chạm đầu lưỡi – chạm vào sức nóng Hỏi: Bài thơ miêu tả những loại trái cây nào? (nhót, cà chua, ớt). Tác giả đã sử dụng nghệ thuật gì để miêu tả các loại trái cây đó? Lấy ví dụ. (nghệ thuật so sánh: quả nhót – ngọn đèn, quả cà chua – đèn lồng, quả ớt – ngọn lửa đèn dầu.) Từ đó tôi chỉ cho học sinh cái hay, sáng tạo và tác dụng của biện pháp nghệ thuật nêu trên. + Ví dụ 2: Khi dạy đến bài chính tả tuần 21 – Tiếng việt 4 tập 2. Trong phần bài tập có bài: “Chọn những tiếng thích hợp trong ngoặc đơn để hoàn chỉnh bài văn sau.” Sau khi cho học sinh thực hiện theo yêu cầu của bài. Tôi gọi hai học sinh đọc lại bài văn. Sau đó tôi đưa ra một số câu hỏi mở rộng nhằm mục đích có thể vận dụng nó vào việc học phân môn Tập làm văn. Bài văn thuộc thể loại văn gì? Kiểu bài gì? (Văn miêu tả, kiểu bài tả cây cối) Tác giả đã quan sát cây theo trình tự nào? (Từng bộ phận của cây) Trong bài văn này tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào? Lấy ví dụ minh họa. (nghệ thuật so sánh, ví dụ như: thân thẳng như thân trúc. Năm cánh dài đỏ tía như ức gà chọi, trái kết màu chín đậm, óng ánh như những hạt cườm) Em học tập được gì khi học bài văn này? (học được cách miêu tả, cách dùng từ, sử dụng các biện pháp nghệ thuật.) Tóm lại: Thông qua tất cả các môn học này, người giáo viên có thể khéo léo khai thác để làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh (từ ngữ miêu tả) và giúp học sinh biết cách sử dụng chúng một cách hợp lý. Xong do đặc trưng của môn học, mỗi giờ học chỉ thiên về một mặt nào đó, nó chỉ hỗ trợ để học sinh học tốt hơn phân môn Tập làm văn. Vì thế người giáo viên không thể lạm dụng để biến nó thành một giờ dạy Tập làm văn chính. 6, Biện pháp 6: Rèn kỹ năng tự kiểm tra đánh giá khả năng của mình và của bạn: Đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học là tư duy cụ thể. Do đó trong giảng dạy, giáo viên cần đưa ra những ví dụ cụ thể để học sinh hình dung, hiểu rõ cách làm. Vì vậy trong các giờ trả bài viết, sau khi nhận xét và hướng dẫn học sinh chữa lỗi, tôi chọn những bài văn hay, đạt điểm cao của học sinh trong lớp để biểu dương, sau đó đọc cho cả lớp cùng nghe. Đọc xong, tôi đặt ra một số câu hỏi để các em trả lời. Ví dụ: Bài làm của bạn hay ở chỗ nào? Sáng tạo ở chỗ nào? Em học tập được những gì từ bài làm của bạn?... Trả lời đúng các câu hỏi của giáo viên đặt ra là học sinh đã học tập được chính bạn của mình. Ngoài ra trong quá trình dạy học, tôi tích lũy được rất nhiều những bài văn hay của học sinh trong các năm học trước, tôi đọc cho các em nghe rồi cùng các em phân tích cái hay, cái cần học tập trong từng bài văn. Ngoài các biện pháp trên, tôi khuyến khích các em lập sổ tay văn học và hướng dẫn các em cách sử dụng. Sổ tay văn học để ghi những câu văn hay, giàu hình ảnh, các câu văn sử dụng các biện pháp nghệ thuật đặc sắc mà các em đọc được trong sách báo, sách tham khảo, trong cuộc sống hàng ngày và trên các phương tiện thông tin đại chúng. Mỗi ngày một câu, mười ngày mười câu cứ như vậy vốn từ ngữ của các em sẽ ngày càng giàu lên. Tóm lại: Việc giúp các em tự đánh giá các bài văn của mình của bạn và không ngừng tích lũy vốn từ sẽ giúp các em học tốt hơn phân môn Tập làm văn nói chung và kiểu bài miêu tả cây cối nói riêng. III, Kết quả thực hiện có so sánh đối chứng: Sau một thời gian nghiên cứu đề tài, áp dụng trực tiếp vào lớp 4C – trường Tiểu học Thọ An do tôi làm chủ nhiệm, tôi nhận thấy các em bắt đầu có hứng thú và đam mê với phân môn Tập làm văn. Giờ học diễn ra nhẹ nhàng và sinh động hơn. Các em đã chủ động, tự giác trong việc hình thành kiến thức. Vốn từ ngữ miêu tả của các em ngày càng phong phú hơn cả về số lượng lẫn chất lượng. Cách sử dụng từ của các em chính xác hơn. Trong khi viết văn các em đã biết cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, các từ láy, các điệp từ Điều này đã được chứng minh qua điểm các bài thi định kỳ ngày một nâng cao về chất lượng. Cụ thể, tôi ra một đề bài kiểm tra lấy kết quả để so sánh. Đề bài: Hãy tả một cây ăn quả mà em thích nhất. Kết quả thu được như sau: Số lượng Giỏi (9 10) Khá (7,8) Trung bình (5, 6) Yếu (1 à 4) 33 Trước khi thực hiện 0 = 0% 7 em = 21,2% 15 em = 45,5% 11 em (33,3%) 33 Sau khi thực hiện 7 em = 21,2% 15 em = 45,5% 9 em = 27,3% 2 em = 6% So sánh đối chứng Tăng 21,2% Tăng 24,3% Giảm 18% Giảm 27,3% Kết quả trên cho thấy những biện pháp tác động giáo dục mà đề tài nêu là có cơ sở lý thuyết và đem lại kết quả thực tiễn. IV, Kết luận và đề nghị sau quá trình thực hiện. 1, Kết quả đánh giá về sáng kiến kinh nghiệm: Qua việc thực hiện đề bài: “Rèn kỹ năng viết bài văn miêu tả cây cối cho học sinh lớp 4”, tôi nhận thấy rằng kết quả thu được không phải có ngay trong một sớm một chiều, nó là cả một quá trình. Để có hiệu quả cao thì cả giáo viên và học sinh đều phải nỗ lực phấn đấu. Vì vậy những người giáo viên phải có biện pháp tích cực, áp dụng thường xuyên, liên tục, có như vậy mới bồi dưỡng được năng lực viết văn cho các em. Bên cạnh đó, giáo viên cần quan tâm đến mọi đối tượng học sinh trong giờ học. với học sinh trung bình, yếu thì chỉ yên cầu thì chỉ yêu cầu các em viết đúng, đủ (mở bài trực tiếp, kết bài không mở rộng). Với học sinh khá giỏi thì khuyến khích và hướng các em viết câu văn hay, bài văn sinh động (mở bài gián tiếp, kết bài mở rộng.) Điều quan trọng là người giáo viên phải thu hút được tất cả học sinh cùng tham gia hoạt động học tập. Đối với học sinh, để làm được một bài văn miêu tả cây cối hay, giàu hình ảnh, cảm xúc, lôi cuốn người đọc bắt buộc các em phải có được kỹ năng làm bài. (Từ quan sát, lựa chọn ý, sắp xếp ý, viết đoạn, viết bài.) Và các yêu cầu bổ trợ cho quá trình rèn luyện kỹ năng. Vì vậy ngoài giờ tập làm văn, học sinh cần có thói quen tích lũy vốn từ, trau dồi cách sử dụng nó thông qua tất cả các giờ học. Ngoài ra, học sinh có thể tìm thêm sách tham khảo, báo, truyện để đọc, điều đó cũng rất bổ ích cho việc học văn của các em. 2, Đề xuất – kiến nghị: Trên đây là một số kinh nghiệm ít ỏi của tôi trong viêc: “Rèn kỹ năng viết một bài văn miêu tả cây cối cho học sinh lớp 4”. Tôi đã mạnh dạn chuyển nó thành một: sáng kiến kinh nghiệm. Vì vậy bản sáng kiến này chắc chắn sẽ còn nhiều hạn chế. Kính mong hội đồng khoa học các cấp xem xét và đóng góp ý kiến để bản sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn. C. Tµi liÖu tham kh¶o ®Ó viÕt s¸ng kiÕn - Sách Tiếng việt lớp 4 (Tập 1 + Tập 2) - Sách thiết kế bài giảng lớp 4 (Tập 1 + Tập 2) - 207 đề và bài văn tiểu học (Nhà xuất bản Đại học Sư phạm). - Những bài văn mẫu lớp 4 (Nhà xuất bản văn hóa – thông tin.) - Cuốn: “Giả đáp 88 câu hỏi về giảng dạy Tiếng việt ở bậc Tiểu học. - Tạp chí giáo dục Tiểu học số 89 tháng 4/2004 bài: “Diễn đàn về chỉ đạo giảng dạy môn Tiếng việt ở Tiểu học.” - Thế giới quanh ta số 185 xuất bản tháng 5 năm 2004 bài: “Hỏi đáp về Tập làm văn lớp 4”. ý kiÕn ®¸nh gi¸ cña H§KH c¸c cÊp ý kiÕn ®¸nh gi¸ cña H§KH c¸c cÊp
Tài liệu đính kèm: